Thông tin tài liệu:
Nguy cơ bị viêm khớp dạng thấp cao hơn hai lần ở phụ nữ sinh con nặng cân (quá 10 pounds tương đương 4,5 kg) so với phụ nữ sinh con có cân nặng trung bình (từ 7 tới 8.5 pounds tương đương 3,2 – 3,8 kg). Nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện Phẫu thuật đặc biệt ở thành phố New York (Mỹ). Các nhà nghiên cứu đã phân tích tình trạng sức khỏe của hơn 87.500 phụ nữ (từ 30 tới 55 tuổi) tham gia vào Nghiên cứu sức khỏe của Hội các nhà điều dưỡng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sinh con nặng cân có nguy cơ viêm khớp dạng thấp Sinh con nặng cân có nguy cơ viêm khớp dạng thấp Nguy cơ bị viêm khớp dạng thấp cao hơn hai lần ở phụ nữ sinh con nặng cân (quá 10 pounds tương đương 4,5 kg) so với phụ nữ sinh con có cân nặng trung bình (từ 7 tới 8.5 pounds tương đương 3,2 – 3,8 kg). Nghiên cứu được tiếnhành tại bệnh viện Phẫu thuật đặc biệt ở thành phốNew York (Mỹ). Các nhà nghiên cứu đã phân tích tìnhtrạng sức khỏe của hơn 87.500 phụ nữ (từ 30 tới 55tuổi) tham gia vào Nghiên cứu sức khỏe của Hội cácnhà điều dưỡng Hoa Kỳ thời gian từ năm 1976 đếnnăm 2002.Trong suốt thời gian nghiên cứu, có 619 phụ nữ đượcchẩn đoán bị viêm khớp dạng thấp. Những phụ nữsinh con nặng cân có vẻ như bị viêm khớp dạng thấpnhiều hơn so với những người sinh con có cân nặngtrung bình.Hội điều dưỡng khẳng định điều đó là đúng, sau khinghiên cứu phân tích các yếu tố có thể ảnh hưởng tớitrọng lượng khi sinh, như bố mẹ hút thuốc lá, tìnhtrạng kinh tế xã hội, bệnh đái tháo đường của ngườimẹ, tuổi khi bị bệnh giai đoạn đầu, sử dụng thuốctránh thai hoặc biện pháp thay thế hóc môn, nuôi conbằng sữa mẹ và cân nặng của phụ nữ.Các nhà nghiên cứu không tìm được những lý giảisinh học rõ ràng cho những điều đã phát hiện ranhưng họ nhận thấy những người trưởng thành bịviêm khớp dạng thấp có sự điều tiết hóc môn khôngbình thường và quá trình này có thể bị kích hoạt trongthời kỳ mang thai.Nghiên cứu này được công bố trên tạp chí TheAnnals of Rheumatic Diseases. Nghiên cứu hỗ trợcho thuyết bệnh tật của bào thai nêu rằng một sốbệnh và tình trạng bệnh lý ở người lớn đã được lậptrình từ những yếu tố của thời kỳ còn trong bụng mẹ