Ta biết, Vật lí là môn học có phạm vi nhận thức rộng rãi, giúp học sinh có khả năng kết hợp giữa hoạt động trí óc và hoạt động chân tay. Những quan sát và thí nghiệm, những phép đo lường các đại lượng vật lí, những quan hệ toán học... Mời các bạn tham khảo bài SKKN về một số phương pháp kích thích hứng thú học tập của học sinh qua môn vật lý, để áp dụng hiệu quả hơn nhé.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SKKN: Một số phương pháp kích thích hứng thú học tập của học sinh qua môn vật lý SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẾN TRE PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO MỎ CÀY NAM Đơn vị: Trường THCS An Thạnh ---- *** ---- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tàiMỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP “KÍCH THÍCH HỨNG THÚ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH QUA MÔN VẬT LÝ” Đề tài thuộc lĩnh vực chuyên môn: Giảng dạy vật lý. Họ tên người thực hiện: Tạ Thị Đức. Chức vụ: Giáo viên Sinh hoạt tổ chuyên môn: Lí – Công nghệ - Tin học. Mỏ Cày Nam: tháng 3 năm 2012 1 PHẦN MỞ ĐẦUI. Bối cảnh của đề tài: Ngành Giáo dục hiện nay luôn coi trọng việc “Xây dựng mô hình trường THCS tổchức hoạt động đổi mới PPDH” để đáp ứng được yêu cầu này giáo viên có nhiệm vụ:“ Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy”. Vật lí là môn học có phạm vi nhận thức rộng rãi, cung cấp cho học sinh khả năngvô hạn của sự kết hợp giữa hoạt động trí óc và hoạt động chân tay. Những quan sát vàthí nghiệm, những phép đo lường các đại lượng vật lí, những quan hệ toán học, nhữngkhái quát có tính lí thuyết, những giả thuyết hầu như là bộ phận hoàn chỉnh củaphương pháp nghiên cứu và nhận thức các hiện tượng vật lí. Những kinh nghiệm về nhận thức thu lượm được trong các bài học vật lí nhất địnhcó tác dụng tốt cho học các môn khác. Trong các lớp THCS bắt đầu học vật lí thì điềuđặc biệt quan tâm là phải vũ trang cho các em phương pháp thu lượm kiến thức nhưthế nào để có thể sử dụng dễ dàng khi học các giáo trình ở các lớp trên.II. Lí do chọn đề tài: Một nhiệm vụ cơ bản của dạy học trong nhà trường là cung cấp cho học sinhnhững kiến thức phổ thông có hệ thống và tương đối toàn diện về vật lí. Quá trình học sinh nắm vững kiến thức không phải là tự phát mà là quá trình cómục đích rõ rệt, có kế hoạch, có tổ chức chặc chẽ, một quá trình nổ lực tư duy trongđó học sinh phát huy tính tích cực, tính tự giác của mình dưới sự chỉ đạo của giáoviên. Trong quá trình ấy, mức độ tự lực của học sinh này cao thì mức độ kiến thứcnắm được càng sâu sắc, tư duy độc lập sáng tạo càng phát triển, kết quả học tập càngtốt.III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Những con đường, những phương tiện, những phương pháp chuẩn bị cho học sinhtiếp thu kiến thức bắt nguồn từ sự phân tích các vấn đề tổng quát mà ta cần giải quyết.Khả năng nhận thức của học sinh một mặt do sự ham hoạt động nhận thức mặt khác 2do khả năng trí tuệ có thể tự lực nhận thức điều đang học. Về khả năng nhận thức vàmức độ tích cực trong học tập, ta có thể gắn những loại học sinh khác nhau như: + Một số học sinh rõ ràng là có tính tích cực cao nhưng lại không có đủ kĩ năngtrong học tập. + Không ít học sinh toàn tâm học thuộc tài liệu nhưng lại dựa vào trí nhớ máymóc, các em tỏ ra bất lực khi phải suy luận, vận dụng kiến thức, tìm hiểu tài liệu mới. + Một số học sinh khác có nếp suy tưởng sinh động, có biểu hiện bên ngoài tíchcực nhưng lại không ở tư thế sẳn sàng, thậm chí còn ở tư thế chống lại học tập. + Kết quả học tập sẽ tăng lên rất nhiều nếu chúng ta tạo cho các loại học sinh nàythành một nhóm có lòng khao khát hiểu biết, ý thức tự giác tiếp thu tri thức, nghị lựckĩ năng làm việc độc lập.IV. Mục đích nghiên cứu: Chức năng phát triển của công việc dạy học vừa phụ thuộc vào nội dung dạy họcvừa phụ thuộc vào phương pháp giảng dạy. Khả năng nhận thức của học sinh tăng lêntuần tự và giáo viên hướng dẫn sự phát triển này càng ráo riết và có tính mục đích thìnó càng tăng nhanh. muốn nâng cao hiệu quả cho việc chuẩn bị cho học sinh nắm kiếnthức thì giáo viên cần lưu ý những mặt của quá trình dạy học như sau: 1/ Trên con đường nhận thức học sinh không thể có những bước tiến vững chắcnếu không có một vốn tối thiểu về kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo thực tế. Bởi vì thông hiểuvà tự giác lĩnh hội cái mới xảy ra trên cơ sở lấy những cái đã biết, đã được thấm nhuầnlàm nền tảng. 2/ Muốn đi đến một suy luận, kết luận khái quát nào đó, trước hết phải quan sát,nghiên cứu các sự kiện, đối chiếu, so sánh chúng, thành lập mối liên hệ nhân quả giữachúng với nhau, có kĩ năng trừu tượng hoá từ cái cụ thể…Điều đó có nghĩa là học sinhphải có một số kiến thức tối thiểu nào đó trong môn học. 3 NỘI DUNGI. Cơ sở lý luận: 1/ Việc rèn luyện kĩ năng là một trong những yêu cầu quan trọng không kém, việctrau dồi kiến thức trong quá trình hình thành nhân cách học sinh. Từ trước đến naytrong các trường sư phạm chỉ chú trọng dạy cách làm việc của thầy chứ không quantâm tới việc dạy cách hướng dẫn học sinh tự học ở trường phổ thông, học sinh tự màymò tìm lấy cách học chứ giáo viên không dạy họ cách học. theo định hướng coi trọngviệc rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh thì đổi mới dạy học là dạy cách tự học, tựlàm, tự tiếp thu kiến thức một cách sáng tạo. 2/ Do đó người giáo viên phải coi trọng việc truyền thụ các phương pháp nhận thứcđặc thù của bộ môn như: Phương pháp thí nghiệm, phương pháp thực nghiệm, phươngpháp mô hình,…, trong đó các thí nghiệm, mô hình vật lí,…không chỉ là phương tiệnminh hoạ kiến thức, mà chủ yếu đóng vai trò là nguồn thông tin, là phương tiện để họcsinh khai thác khám phá và chiếm lĩnh kiến thức.II. Thực trạng của vấn đề: Đối với môn khoa học thực nghiệm như Vật lí, có thể nói: “Trăm nghe không bằngmột thấy; trăm thấy không bằng một làm”. Nếu không có sự trải nghiệm trong thực tếthì sự lĩnh hội kiến thức không thể sâu sắc và bền chặc được, do đó phải tạo điều kiệncho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức thông ...