Bài viết cho thấy, hơn bất cứ thời gian nào khác, đất đai của Việt Nam đang là vấn đề nóng nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay, trong số tổng số khiếu nại tố cáo và cả tham nhũng tới cả hơn một chục năm nay, kể từ khi có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa những chiếm tới hơn 70 % có liên quan đến đất đai, nhất là đất canh tác.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sở hữu công của cộng đồng làng xã đối với đất đai trong lịch sử và bài học của chúng ta
Sở hữu công của cộng đồng làng xã
đối với đất đai trong lịch sử và bài học của chúng ta
Nguyễn Đăng Dung
Đại học quốc gia Hà Nội
Tóm tắt
Hơn bất cứ thời gian nào khác, đất đai của Việt Nam đang là vấn đề nóng
nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay, trong số tổng số khiếu nại tố cáo và cả tham
nhũng tới cả hơn một chục năm nay, kể từ khi có kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa những chiếm tới hơn 70 % có liên quan đến đất đai, nhất là đất
canh tác. Nguyên nhân của vấn đề là quy chế của loại hinh đất đai này. Xin được
giới thiệu quy chế ruộng công của làng xã Việt Nam thời phong kiến và bài học
cần phải rút cho viẹc giải quyết những khó khăn của hiện nay.
Từ khóa: Sở hữu đất đai; cộng đồng làng xã; ruộng công làng xã; quân điền.
1. Sơ thảo các loại hình sở hữu đất đai của người Việt trước khi thực dân
Pháp đô hộ
Ngay từ những năm đầu tiên của việc dựng nước, tổ tiên của người Việt đã
biết ứng xử với đất đai như một loại tư liệu sản xuất và tiêu dùng đặc biệt. Trải
qua một chiều dài của lịch tổ tiên người Việt đã có các loại hình sở hữu đa dạng
cho đất đai trước khi người Pháp đô hộ. Đất đai của chế độ phong kiến được chia
thành 2 loại đất thổ cư và đất ruộng/ruộng đất.
48
Loại thứ nhất là đất thổ cư. Đất này là đất thuộc sở hữu tư nhân được dùng
cho đất ở và nơi thờ tự, có thể tự mua bán, tự chuyển nhượng. Chủ sở hữu có thể
là tư nhân có thể là tổ chức, có thể là cả nhà nước.
Loại thứ hai là đất ruộng, đất sản xuất hay còn được gọi ngược là là ruộng
đất cũng có đủ các loại hình sở hữu cũng có sở hữu tư, cũng có sở hữu tập thể của
cộng đồng cư dân và cũng có sở hữu nhà nước. Mỗi một loại sở hữu có một quy
chế pháp lý riêng biệt. Sự phức tạp rõ nhất là quy chế của loại ruộng đất của cộng
đồng làng xã.
Làng xã Việt Nam trong thời phong kiến độc lập có cả ruộng đát công của
nhà nước trung ương lẫn ruộng đất công của làng xã. Sự tồn tại của bộ phận ruộng
đất công của nhà nước trung ương trong địa giới của làng xã được nhiều nguồn tư
liệu, thuộc nhiều thời gian khác nhau nói đến. Bộ phận này gọi bằng nhiều tên
khác nhau: công điền, quan khố điền hay quốc khố điền. Bộ phận ruộng đất này
thuộc sở hữu của nhà nước trung ương, mà người đại diện là nhà Vua. Nhà vua có
thẻ dùng loại ruộng này để cho việc phong thưởng vĩnh viễn hay hết đời cho các
công thần tùy theo công trạng của họ. Số còn lại nhà Vua cử người trông coi và
thu tô. 1
Quan trọng nhất là Ruộng đất của công xã được gọi là ruộng quân cấp hay
ruộng khẩu phân có một cuộc sống dai dẳng hơn. Mỗi làng có một bộ phận đất
công khẩu phân riêng, ít nhiều tùy thuộc vào mức độ phân hóa của nó. Đối với
làng xã cổ, ruộng đát cong khẩu phân vốn là bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu tập
thể của công xã thời nguyên thủy. Tình hình này được giữ nguyên khi xã hội có
gia cấp ra dời. Từ những buổi đầu xa xưa này tục chia lại ruộng đất định kỳ 4- 5
năm theo nhân khẩu / xuất đinh đã được hình thành và được phổ biến.2 Người
nông dân xã viên không được chuyển nhượng ruộng đất công khẩu phân, nhung
cũng không chịu ràng buộc tập thể nào trong viẹc kinh doanh trên mảnh đất được
1
Xem, Trương Hữu Quýnh, Những quan hệ sở hữu trong bộ phận ruộng đất công ở làng xã Việt Nam cổ
truyền/ Nông thôn Việt Nam trong lịch sử của Viện sử học của VHLKHXHVN Nxb. KHXH 2020 tr. 76
2
Xem. Trương Hữu Quýnh, S.d.d. tr.81
49
chia đó. Theo định kì kỳ họ phải nộp lại phần ruộng được chia cũ để nhận phần
ruộng được chia mới. Cuối mỗi vụ thu hoạch người dân có nghĩa phải nộp thuế
cho nhà nước và một chút nữa cho làng.
Lịch sử dần có sự thay đổi, làng xã mất quyền sở hữu ruộng đất công của
mình có thể từ thế kỷ 15, nhưng vẫn còn chiếm giữ được một ít quyền chiếm hữu
nào đó như: ruộng công của xã nào thì xã đó được hưởng, cách chia định kỳ hoàn
toàn do tập tục của xã quy định... Nhưng có nhiều thời kỳ nhà nước phong kiến đã
tìm cách can thiệp vào ruộng công của làng xã. Ví dụ vào năm 1430 nhà nước
trung ương đã ban hành quy định:.. “xã nào có ruộng đất nhiều, dân ít mà bỏ
hoang, thì cho phép các quan bảo quản cho người xã khác không có ruộng cày
cấy; người điền chủ bản xã không được chiếm rồi bỏ hoang, ai trái thì xử tội
cưỡng chiếm” (Toàn thư -III-74). Nếu đến thời hạn mà không cấp, không đảo điền
không theo phép thì quan ở đây bị trị tội theo luật.3
Đất đai và tô thuế tạo ra sự công nhận của nhà nước đối với sở hữu tư nhân
về đất đai từ năm 10924. Chính sách quân điền của thời Lê Thanh Tông – Hồng
Đức (1470 - 1497) là rõ ràng và thống nhất trên toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam nhất.
Năm 1477 chính sách quân điền được chính thức ban hành. Thể lệ chia ruộng quy
định như sau:
“Các xã công điền cứ 6 năm một kỳ, các quan phủ, châu,
huyện phải tiến hành kiểm sát lại việc đo đạc, tùy theo số ruộng nhiều
ít, tốt xấu chia làm 3 hạng: nhất, nhị, tam, rồi thống kê kể cả người
có tang, dưỡng bệnh, ở nhàn, đến vợ con những người bị đồ, lưu
trong xã là bao nhiêu người, tính ra mỗi hạng người được bao nhiêu,
ruộng nhiều thì chia theo mẫu, ruộng ít thì chia theo sào, thước, tấc,
theo hạng chia đều, trưng tô theo lệ. Nếu quan viên đã được cấp quan
điền ở xứ khác, dã đủ phần, mà ruộng của bản xã cũng đã vừa đủ thì
đình cấp. Các quan viên nhàn tản, người ở nhàn, thì có 2 phần bớt
3
Thiên nam dư hạ.
4
Đại Doãn Phan, Làng Xã Việt Nam: Một Số Vấn Đề Kinh Tế - ...