Trong thập niên qua, với các tiến bộ trong hiểu biết về các chất dinh dưỡng cần thiết cho phôi, người ta đã phát triển các loại môi trường để hỗ trợ cho nuôi cấy phôi dài ngày bên ngoài cơ thể, từ phác đồ tiêu chuẩn là ngày 2, ngày 3 (giai đoạn phân chia sớm) sang ngày 5, ngày 6 (giai đoạn blastocyst). Cơ sở lý luận của nuôi cấy phôi nang là để cải thiện sự tương đồng trong sự phát của nội mạc tử cung và phôi; ngoài ra đây cũng là một phương pháp...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
So sánh chuyển phôi giai đoạn phân chia và giai đoạn phôi nang trong hỗ trợ sinh sản
So sánh chuyển phôi giai đoạn phân chia và giai
đoạn phôi nang trong hỗ trợ sinh sản
TÓM TẮT
Cơ s ở
Trong thập niên qua, với các tiến bộ trong hiểu biết về các chất dinh dưỡng cần
thiết cho phôi, người ta đã phát triển các loại môi trường để hỗ trợ cho nuôi cấy
phôi dài ngày bên ngoài cơ thể, từ phác đồ tiêu chuẩn là ngày 2, ngày 3 (giai đoạn
phân chia sớm) sang ngày 5, ngày 6 (giai đoạn blastocyst). Cơ sở lý luận của nuôi
cấy phôi nang là để cải thiện sự tương đồng trong sự phát của nội mạc tử cung và
phôi; ngoài ra đây cũng là một phương pháp chọn lọc phôi. Từ lúc phong trào nuôi
cấy phôi nang bắt đầu phát triển, năm 1998, có nhiều báo cáo kết quả đối nghịch
nhau về hiệu quả lâm sàng của kỹ thuật này.
Mục tiêu
Xác định xem chuyển phôi giai đoạn phôi nang có ảnh hưởng lên tỉ lệ thành công
so với chuyển phôi giai đoạn phân chia và nghiên cứu các yếu tố có thể ảnh
hưởng.
Phương pháp tìm kiếm dữ liệu
Chúng tôi tìm dữ liệu trong thư viện Cochrane về các thử nghiệm có đối chứng
của phần “Rối loạn kinh nguyệt và hiếm muộn”. Chúng tôi cũng tìm trong cơ sở
dữ liệu về tòan bộ các thử nghiệm có đối chứng của Cochrane, trong MEDLINE,
EMBASE và Bio extracts. Chúng tôi đã cố gắng phân biệt các dữ liệu của các
quốc gia và các nghiên cứu thử nghiệm và phân biệt các báo cáo tổng hợp và các
báo cáo thực nghiệm. Thời điểm chấm dứt thu thập dữ liệu là vào tháng 5 năm
2005. Chúng tôi cũng liên hệ tất cả các tác giả của các nghiên cứu hoặc dữ liệu để
tìm hiểu thêm các thông tin liên quan.
Tiêu chuẩn chọn dữ liệu
Chúng tôi chỉ chọn những nghiên cứu thực hiện theo ph ương pháp ngẫu nhiên và
có so sánh kiểm chứng so sánh hiệu quả giữa chuyển phôi giai đoạn sớm và
chuyển phôpi giai đoạn phôi nang.
Thu thập dữ liệu và phân tích
Trong tổng cộng 45 nghiên cứu được ghi nhận, có 16 nghiên cứu đủ tiệu chuẩn
nhận. Các yếu tố đánh giá kết quả chủ yếu bao gồm tỉ lệ sinh sống, tỉ lệ thai lâm
sàng và tỉ lệ đa thai trên từng bệnh nhân. Các yếu tố phụ bao gồm tỉ lệ sẩy thai, tỉ
lệ không có phôi chuyển, tỉ lệ trữ phôi, tỉ lệ làm tổ tỉ lệ đa thai nhiều (> 2 thai)trên
từng chu kỳ điều trị. Đánh giá chất lượng dữ liệu và thu thập dữ liệu được thực
hiện bởi 2 tác giả độc lập. Phương pháp phân tích tổng hợp (meta-analysis) đ7ựoc
thực hiện, sử dụng odds ratios (OR) để so sánh kết quả và sự khác biệt, với độ tin
cậy (CI) là 95%.
Kết quả chính
• Không có bằng chứng nào cho tấy có sự khác biệt về tỉ lệ sinh sống sau điều trị
giữa 2 nhóm (7 báo cáo; OR 1,16 95% CI 0,74-1,44); tỉ lệ sinh sống nhóm CP
ngày 2/3 là 34,3% so với CP ngày 5/6 là 35,4%.
• Đối với tỉ lệ thai lâm sàng (15 báo cáo; 1,05 95% CI 0,88-1,26); tỉ lệ thai lâm
sàng cũng không khác biệt, ngày 2/3 là 38,8% so với 40,3%. Ngay cả với những
trường hợp tiên lượng tốt cũng không có sự khác biệt (6 báo cáo: 1,06 95% CI
0,83-1,34).
• Tỉ lệ đa thai cũng không khác nhau giữa 2 nhóm (12 báo cáo; OR 0,85 95% CI
0,63-1,13). Không có sự khác biệt về tỉ lệ đa thai nhiều (>2 thai) (5 báo cáo; OR
0,44, 95% CI 0,15-1,33) cũng như tỉ lệ sẩy thai giữa 2 nhóm (9 báo cáo; OR 1,33,
95% CI 0,89-2,01).
• Tỉ lệ có phôi trữ lạnh cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm chuyển phôi ngày 2/3
(9 báo cáo; OR 0,45, 95% CI 0,36-0,57).
• Số trường hợp không có phôi để chuyển cao hơn ở nhóm chuyển phôi ngày 5/6
(10 báo cáo; OR 3,21, 95% CI 2,15 to 4,81), tuy nhiên không khác bi ệt ở nhóm có
tiên lượng tốt.
Kết luận
Không có bằng chứng nào cho thấy có sự khác biệt giữa tỉ lệ sinh sống và tỉ lệ có
thai giữa chuyển phôi ngày 2,3 và chuyển phôi ngày 5,6. Chuyển phôi blastocyst
(phôi nang) làm tăng khả năng không có phôi để chuyển và giảm tỉ lệ có phôi trữ
lạnh. Nếu chưa tính được tỉ lệ có thai cộng thêm nhờ vào trữ lạnh phôi dư và
chuyển phôi rã đông sau đó, chúng ta chưa có thể nói là chuyển phôi blastocyst là
có lợi hay có hại.
Có thể truy cập trực tiếp tài liệu trên (tiếng Anh) tại
http://www.mrw.interscience.wiley.com/cochrane/clsysrev/articles/CD002118/fra
me.html
[Review]
Cleavage stage versus blastocyst stage embryo transfer in assisted conception
D Blake, M Proctor, N Johnson, D Olive
Cochrane Database of Systematic Reviews 2006 Issue 3
Copyright © 2006 The Cochrane Collaboration. Published by John Wiley & Sons,
Ltd.
DOI: 10.1002/14651858.CD002118.pub2 This version first published online: 19
October 2005 in Issue 4, 2005
Date of Most Recent Substantive Amendment: 23 August 2005
This record should be cited as: Blake D, Proctor M, Johnson N, Olive D. Cleavage
stage versus blastocyst stage embryo transfer in assisted conception. Cochrane
Database of Systematic Reviews 2005, Issue 4. Art. No.: CD002118. DOI:
10.1002/14651858.CD002118.pub2.
________________________________________
Abstract
Background
In the past decade, advances in the understanding of nutrient requirements of
embryos, ...