Danh mục

Sổ tay Luật sư (Tập 1): Phần 2

Số trang: 182      Loại file: pdf      Dung lượng: 6.05 MB      Lượt xem: 41      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tiếp phần 1, Sổ tay Luật sư (Tập 1): Phần 2 Kỹ năng hành nghề luật sư chung của luật sư khi cung cấp dịch vụ pháp lý, cung cấp cho người đọc những kiến thức như: Phạm vi cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư; Kỹ năng chung của luật sư khi cung cấp dịch vụ pháp lý; Cơ sở tính thù lao luật sư, thủ tục báo giá dịch vụ và soạn thảo Hợp đồng dịch vụ pháp lý; So sánh phạm vi hành nghề luật sư với một số nghề luật khác;... Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sổ tay Luật sư (Tập 1): Phần 2 PHẦN 2 KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ CHUNG CỦA LUẬT SƯ KHI CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ Chương 4 PHẠM VI CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ Lịch sử của nghề luật sư ở Việt Nam bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đô hộ Việt Nam. Sự phát triển của nghề luật sư, về cơ bản, phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế và điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước. Vì vậy, hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới đặc biệt là từ giai đoạn cuối thế kỷ XX cho đến nay, đã kéo theo sự phát triển của nghề luật sư đưa nghề luật sư trở thành một nghề có vị trí cao trong xã hội. Giai đoạn đầu những năm 90 thế kỷ XX, khi nhắc đến Luật sư người ta thường chỉ liên tưởng đến Luật sư tranh tụng. Hình ảnh tiêu biểu của Luật sư trong xã hội lúc đó là ra tòa và đại diện cho khách hàng tại tòa trong các vụ việc về hình sự và dân sự. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, đội ngũ luật sư tư vấn cho khách hàng trong các giao dịch thương mại cũng từng bước được hình thành bên cạnh các Luật sư tranh tụng. Việc ra đời của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo nên sự thay đổi sâu sắc, mở đường cho sự phát triển của nghề luật sư nói chung, tạo cơ sở ban đầu của làn sóng gia nhập thị trường pháp lý Việt Nam của các công ty luật quốc tế danh tiếng đến từ các nước như Anh, Mỹ, Ôxtrâylia. Tại thời điểm đó, pháp luật về Luật sư quy định phạm vi hành nghề của Luật sư Việt Nam bao gồm: (i) Tư vấn pháp luật, (ii) Tham gia tố tụng, 70 ♦ SỔ TAY LUẬT SƯ - Tập 1 và (iii) Các dịch vụ pháp lý khác1. Trong khi đó, các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài không được phép: (i) Tham gia tố tụng để bào chữa hay đại diện cho khách hàng trước Tòa án Việt Nam, hay (ii) Tư vấn về luật Việt Nam, mà chỉ được tư vấn về luật nước ngoài và thông lệ quốc tế2. Ngoài ra, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài cũng không được phép thuê Luật sư Việt Nam để làm việc cho mình3. Vì vậy, để có thể cung cấp dịch vụ tư vấn về luật pháp của Việt Nam, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài bắt buộc phải hợp tác với các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam4. Chính hoạt động hợp tác giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài với các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam suốt những năm 90 thế kỷ XX đã góp phần đào tạo nên một thế hệ Luật sư Việt Nam có kinh nghiệm chuyên sâu về tư vấn và hiểu biết thông lệ quốc tế trong lĩnh vực tư vấn luật. Rất nhiều Luật sư Việt Nam thế hệ này sau đó đã đứng ra thành lập các tổ chức hành nghề luật sư và khẳng định được uy tín trên thị trường pháp lý Việt Nam5. Tiếp theo đó, Pháp lệnh luật sư năm 2001 và gần đây nhất là Luật luật sư đều có những quy định để mở rộng dần phạm vi hành nghề của Luật sư nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam. Thông thường, phạm vi hành nghề (hay lĩnh vực hành nghề) của Luật sư bao gồm bốn loại hình dịch vụ pháp lý sau: - Tham gia tố tụng; - Tư vấn pháp luật6; 1. Điều 13 Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987. 2. Điều 20 Nghị định số 42-CP ngày 08-7-1995 của Chính phủ ban hành Quy chế hành nghề tư vấn pháp luật của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam (Sau đây gọi tắt là Nghị định 42-CP). 3. Điều 24 Nghị định 42-CP. 4. Điều 21 Nghị định 42-CP. 5. Xem thêm Trương Nhật Quang: Kỹ năng hành nghề luật sư tư vấn, Nxb. Lao động, 2013, tr.12-16. 6. Tư vấn pháp luật được trình bày xuyên suốt trong chương này là hoạt động tư vấn pháp luật của Luật sư. Bên cạnh hoạt động tư vấn pháp luật của Luật sư còn có hoạt động tư vấn pháp luật của các trung tâm tư vấn pháp luật được thành lập và hoạt động theo quy định của Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16-7-2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật. Tuy nhiên, tư vấn pháp luật của Luật sư bản chất là một hoạt động kinh doanh đặc thù và vì mục đích lợi nhuận trong khi tư vấn pháp luật của các trung tâm này là hoạt động mang tính xã hội và không vì mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động tư vấn pháp luật của các trung tâm tư vấn pháp luật này không được phân tích trong Chương này. Phần 2: KỸ NĂNG HÀNH NGHỀ CHUNG CỦA LUẬT SƯ ... ♦ 71 - Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng; và - Các dịch vụ pháp lý khác. Theo Luật luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài có phạm vi hành nghề hạn chế hơn, chỉ bao gồm: (i) Tư vấn pháp luật, và (ii) Thực hiện các dịch vụ pháp lý khác1. Cần lưu ý, là tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài không được cử Luật sư nước ngoài và Luật sư Việt Nam trong tổ chức hành nghề của mình tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án Việt Nam hoặc thực hiện các dịch vụ về giấy tờ pháp lý và công chứng liên quan tới pháp luật Việt Nam, được cử Luật sư Việt Nam trong tổ chức hành nghề của mình tư vấn pháp luật Việt Nam và được cử Luật sư của mình tham gia tranh tụng trước các tổ chức tài phán khác như trọng tài thương mại tại Việt Nam. Phạm vi hành nghề là một trong những nội dung quan trọng được ghi nhận trong Giấy phép hoạt động2. Các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam hay nước ngoài đều phải hoạt động theo đúng phạm vi, lĩnh vực hành nghề được ghi trong Giấy phép hoạt động3. Cần lưu ý, phạm vi, lĩnh vực hành nghề được ghi nhận trên Giấy phép hoạt động có thể tương tự hoặc rõ ràng hơn (cụ thể hơn hoặc hạn chế hơn) so với quy định của pháp luật, cụ thể là: - Đối với các dịch vụ tư vấn, đại diện theo ủy quyền của khách hàng trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp: Lĩnh vực sở hữu công nghiệp (sở hữu trí tuệ) là lĩnh vực tương đối đặc thù so với các lĩnh vực khác, nên pháp luật đòi hỏi Luật sư hoặc tổ chức hành nghề luật sư cần phải có Giấy phép hoạt động riêng khi thực hiện các dịch vụ pháp lý liên quan đến sở hữu công nghiệp. Vì vậy, các tổ chức hành nghề luật sư nếu có hoạt ...

Tài liệu được xem nhiều: