Danh mục

Sốt trong hội chứng ung thư

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 143.36 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Sốt là một triệu chứng rất thường gặp, hầu hết là lành tính. Hầu hết sự gia tăng nhiệt độ cơ thể là một phản ứng sinh học khi cơ thể bị nhiễm virus hay vi khuẩn. Tăng nhiệt độ giúp cơ thể tiêu diệt các vi khuẩn hay virus xâm nhập . Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một cơn sốt dai dẳng có thể gặp trong ung thưSốt trong hội chứng ung thư: liên tục, kéo dài hơn ba ngày và có thể sốt cao hoặc nhẹ, có thể có hoặc không có triệu chứng kèm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sốt trong hội chứng ung thư Sốt trong hội chứng ung thưSốt là một triệu chứng rất thường gặp, hầu hết là lành tính. Hầu hết sự gia tăngnhiệt độ cơ thể là một phản ứng sinh học khi cơ thể bị nhiễm virus hay vi khuẩn.Tăng nhiệt độ giúp cơ thể tiêu diệt các vi khuẩn hay virus xâm nhập . Tuy nhiên,trong một số trường hợp, một cơn sốt dai dẳng có thể gặp trong ung thưSốt trong hội chứng ung thư: liên tục, kéo dài hơn ba ngày và có thể sốt cao hoặcnhẹ, có thể có hoặc không có triệu chứng kèm theo. Sốt cao hay thấp không nóilên tình trạng của bệnh nhân nặng hay nhẹ.Nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh sốt ở bệnh nhân ung thư là- Nhiễm trùng, một nguyên nhân phổ biến gây ra bệnh sốt ở bệnh nhân ung thư vàcó thể gây tử vong. Hệ thống miễn dịch ở bệnh nhân ung th ư có thể bị suy yếu,làm cho dễ bị nhiễm trùng khác nhau.- Các tế bào khối u có thể tiết ra các chất gây ra các phản ứng sốt. Một số khối ucó thể bị nhiễm. Khối u trong não có thể ngăn ngừa vùng dưới đồi (nhiệt của cơthể) để điều hòa nhiệt độ.- Bệnh do mô ghép chống lại ký chủ, xuất hiện khi tuỷ xương được cấy ghép hoặccác tế bào gốc ngoại vi tấn công các mô tế bào của bệnh nhân.- Các loại thuốc như thuốc tiêm dùng trong hoá trị liệu, các loại thuốc điều chỉnhphản ứng sinh học, và các loại thuốc kháng sinh, như kháng sinh có nguồn gốcstreptomyces, chất kháng sinh amphotericin.Cơ chế:Sốt là một phản ứng của cơ thể trước nhiều tác nhân: vi khuẩn và độc tố củachúng, nấm, ricketsia, ký sinh trùng, một số chất hoá học và thuốc men, hormon,các kháng nguyên của cơ thể v.v... Những tác nhân gây sốt trên gọi là chất sinhnhiệt (CSN) ngoại sinh. Các chất sinh nhiệt ngoại sinh tác động thông qua chấttrung gian gọi là chất sinh nhiệt nội sinh. Interleukin-1 được coi là cytokin đảmnhiệm chức năng này. Interleukin-1 do các tế bào đơn nhân và đại thực bào sảnxuất ra, bản chất là một peptid có vai trò đáp ứng sớm hay “đáp ứng của giai đoạncấp tính”. Hoạt động của interleukin-1 được thực hiện khi chúng tác động lên cácnơron cảm ứng nhiệt ở vùng trước thị giác của vùng dưới đồi thị. Interleukin-1kích thích quá trình tổng hợp prostaglandin nhóm E từ acid arachidonic.Prostaglandin E mà đặc biệt là PG-E1 sẽ kích thích quá trình tổng hợp adenylmonophosphat vòng (AMP vòng) để hoạt hoá quá trình sinh nhiệt. Thực chất củaquá trình sinh nhiệt là một dãy phản ứng thần kinh-hoá học phức tạp chưa hoàntoàn sáng tỏ. Nhìn chung những nguyên nhân làm tăng sản xuất chất sinh nhiệt nộisinh Interleukin-1 hoặc tăng sản xuất prostaglandin E đều làm tăng quá trình sinhnhiệt và ngược lại (aspirin và các dẫn xuất của nó có tác dụng hạ sốt thông qua cơchế ức chế men cyclo-oxygenaza và do đó ngăn cản tổng hợp prostaglandin E1,E2. Glucocorticoid hạ nhiệt thông qua cơ chế ức chế sản xuất ra interleukin-1v.v..).

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: