Danh mục

Sử dụng các chỉ số để đánh giá chất lượng nước và phân loại mức độ phú dưỡng của vùng nước ven biển miền Bắc Việt Nam

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 628.02 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng cùng với quản lý thiếu chặt chẽ các chất ô nhiễm thải ra biển, nước biển ven bờ miền Bắc Việt Nam có nguy cơ ô nhiễm, có thể xảy ra hiện tượng phú dưỡng trong nước. Theo chỉ số SWQI các điểm khảo sát đều có chất lượng nước tốt, không bị ô nhiễm. Phân loại theo chỉ số dinh dưỡng TSI thì các thủy vực khảo sát đều thuộc nhóm trung dưỡng, theo chỉ số TRIX chỉ có điểm Đồ Sơn và Ba Lạt nước đang trong tình trạng phú dưỡng, các điểm còn lại đều thuộc nhóm thủy vực trung dưỡng. Có sự thống nhất tương đối giữa chỉ tiêu phân loại theo TSI và TRIX, sự phân loại phú dưỡng bằng chỉ số TSI có sự tương quan rõ hơn với kết quả phân loại chất lượng nước.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử dụng các chỉ số để đánh giá chất lượng nước và phân loại mức độ phú dưỡng của vùng nước ven biển miền Bắc Việt Nam THE INTERNATIONAL CONFERENCE ON MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 2016 Sử dụng các chỉ số để đánh giá chất lượng nước và phân loại mức độ phú dưỡng của vùng nước ven biển miền Bắc Việt NamUsing of indexes to evaluate water quality and classification level of eutrophication of coastal waters in the Northern part of Vietnam Lê Văn Nam1, Trần Hữu Long2 1 Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam, namlv@imer.ac.vn 2 Trường Đại học Hàng hải Việt NamTóm tắt Với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng cùng với quản lý thiếu chặt chẽ các chất ônhiễm thải ra biển, nước biển ven bờ miền Bắc Việt Nam có nguy cơ ô nhiễm, có thể xảy rahiện tượng phú dưỡng trong nước. Theo chỉ số SWQI các điểm khảo sát đều có chất lượngnước tốt, không bị ô nhiễm. Phân loại theo chỉ số dinh dưỡng TSI thì các thủy vực khảo sátđều thuộc nhóm trung dưỡng, theo chỉ số TRIX chỉ có điểm Đồ Sơn và Ba Lạt nước đangtrong tình trạng phú dưỡng, các điểm còn lại đều thuộc nhóm thủy vực trung dưỡng. Có sựthống nhất tương đối giữa chỉ tiêu phân loại theo TSI và TRIX, sự phân loại phú dưỡng bằngchỉ số TSI có sự tương quan rõ hơn với kết quả phân loại chất lượng nước. Từ khóa: Môi trường biển, chỉ số chất lượng nước, phú dưỡng.Abstract With the quick development of the economy and loose management of pollutantsdischarging to the marine environment, the coastal sea water in the Northern part of Vietnamis in the risk of pollution and eutrophication may occur. Based on SWQI, the water quality ofall surveyed spots satisfy the requirements and no pollution was found. The classificationbased on TSI nutritional index showed that all surveyed water bodies were of mesotropictype, and based on TRIX index, the water in Do Son and Ba Lat were eutrophic, the water inthe remaining areas were mesotrophic. There is a relative unification between TSI and TRIXclassifications, using TSI index to evaluate eutrophication shows a clearer relationship withwater quality index. Keywords: Marine environment, water quality index, eutrophication.1. Mở đầu Vùng biển ven bờ Miền Bắc Việt Nam có bờ biển dài và tốc độ phát triển kinh tế, xãhội nhanh chóng. Tuy nhiên chính điều này lại đang tác động tiêu cực tới môi trường biển khikhó có thể kiểm soát nguồn gây ô nhiễm. Hiện tượng phú dưỡng là vấn đề được nghiên cứunhiều nhất về ô nhiễm nước biển ven bờ (Rodhe, 1969; Hooper,1969; Vollenweider et al.,1992). Phú dưỡng của một thủy vực là sự tăng cao quá mức nồng độ các chất dinh dưỡng dẫnđến gia tăng năng suất sinh học, làm xuất hiện hiện tượng nở hoa của tảo. Sau khi nở hoa, tảobị suy tàn, quá trình phân hủy tảo chết bởi vi sinh vật sẽ tiêu thụ oxy và làm giảm nồng độoxy trong nước. Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, để đánh giá và phân loại tìnhtrạng phú dưỡng trong nước mặt, các bộ chỉ tiêu phân loại và các thông số dinh dưỡng đãđược áp dụng phổ biến. Với tình hình các nguồn gây ô nhiễm tại ven bờ biển Miền Bắc ngàycàng tăng, trong khi công tác quản lý bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập thì môi trườngnước ven biển có nguy cơ xảy ra hiện tượng phú dưỡng.2. Tài liệu và phương pháp nghiên cứu Tài liệu sử dụng trong bài báo là các kết quả quan trắc năm 2015 của Trạm Quan trắcvà Phân tích môi trường biển Miền Bắc. Phạm vi nghiên cứu là vùng biển ven bờ miền BắcViệt Nam. Các mẫu nước được thu tại các trạm quan trắc Trà Cổ, Cửa Lục (Quảng Ninh), ĐồSơn (Hải Phòng), Ba Lạt (Thái Bình), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An). Mẫu nướcHỘI NGHỊ QUỐC TẾ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI 2016 638 THE INTERNATIONAL CONFERENCE ON MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY 2016được thu tại hai tầng: mặt và đáy, vào thời gian nước lớn và nước ròng trong kỳ nước cường;thu mẫu vào hai quý, đại diện cho hai mùa chính trong năm: mùa khô và mùa mưa. Hình 1. Vị trí các trạm quan trắc - Lấy mẫu nước bằng Batomet: Van Dorn Sampler thể tích 2 lít và 5 lít. Kỹ thuật bảoquản mẫu và thời gian lưu giữ được thực hiện theo TCVN 5998:1995. - Các thông số đo đạc tại hiện trường: + Nhiệt độ nước được đo bằng nhiệt kế thuỷ ngân chuyên dụng hoặc máy đo nhiệt độ,chính xác đến 0,10C; + Độ muối của nước biển (S ‰) xác định bằng máy đo độ muối - khúc xạ kế cầm tay(Hand Refrectometer) với độ chính xác đến 10/00; + pH của nước được đo bằng máy đo pH, chính xác đạt 0,01 đơn vị; ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: