Sử dụng các thị trường đề quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore part 2
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 237.34 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
thuế đối với lao động người nước ngoài; công nghệ của những công ty có liên kết với chính phủ và phát triển chuỗi xí nghiệp; và các thị trường bên trong các cơ quan chính phủ. Ta sẽ thấy rõ thêm vấn đề khi tìm hiểu những chính sách này đã được xây dựng như thế nào, và lưu ý việc sử dụng các nguyên tắc thị trường trong từng loại chính sách. Bảo hiểm xã hội - Quỹ Tiết kiệm Trung ương Quỹ Tiết kiệm Trung ương (CPF) là chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc tiết...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử dụng các thị trường đề quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore part 2 Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singaporethông và sở hữu và sử dụng xe ôtô; thuế đối với lao động người nước ngoài; công nghệ củanhững công ty có liên kết với chính phủ và phát triển chuỗi xí nghiệp; và các thị trường bêntrong các cơ quan chính phủ. Ta sẽ thấy rõ thêm vấn đề khi tìm hiểu những chính sách này đãđược xây dựng như thế nào, và lưu ý việc sử dụng các nguyên tắc thị trường trong từng loạichính sách.Bảo hiểm xã hội - Quỹ Tiết kiệm Trung ươngQuỹ Tiết kiệm Trung ương (CPF) là chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc tiết kiệm khi có thunhập, dựa trên nguyên tắc tiết kiệm, tự lực và cá nhân tự chịu trách nhiệm. CPF được thànhlập năm 1955 nhằm khuyến khích tiết kiệm để có thu nhập cơ bản khi nghỉ hưu. Đây là quỹtiết kiệm bắt buộc đối với tất cả người lao động ăn lương của chính phủ và tư nhân, nhưngđược phép tùy chọn đối với các cá nhân làm nghề tự do. Hiện nay CPF có 2,8 triệu thành viên, và chỉ có 40.000 người Singapore ở độ tuổitrưởng thành không có tài khoản CPF. Ý định ban đầu chỉ thuần túy là tiết kiệm cho nghỉ hưu, CPF từ đó đã tiến triển thànhmột chương trình tiết kiệm toàn diện giúp tài trợ cho thành viên CPF về y tế, nhà ở, giáo dụcvà các nhu cầu khi nghỉ hưu. Tuy nhiên, tính chất quan trọng nhất của nó đã không thay đổikể từ 1955. Suất sinh lợi trên số dư tài khoản CPF của các thành viên phản ánh lãi suất thịtrường,8 và có mối liên kết trực tiếp giữa tiền đóng vào và lợi ích tích lũy, vì tất cả tiền đóngvào đều được ghi vào tài khoản riêng của cá nhân, không có tái phân phối giữa các thànhviên, điều này ngăn chặn những ý nghĩ cho rằng tiền hưu trí là một hàng hóa cho không. Mọi người lao động ăn lương phải đóng góp 20% thu nhập của mình vào CPF, vàngười sử dụng lao động phải góp thêm một khoản tương đương.9 Chính phủ không đóng gópgì cho CPF ngoài tiền phải đóng với vai trò là người sử dụng lao động trong khu vực công,và các ưu đãi về thuế – với CPF tiền đóng góp, tiền tích lũy và tiền rút ra đều được miễnthuế. Mặc dù tỷ lệ đóng góp CPF tổng cộng cho thấy một khoản chênh lệch lớn giữa chi phílao động và tiền lương người lao động mang về nhà, nó vẫn được thực hiện thành công vớisự bóp méo rất nhỏ đối với thị trường lao động do được chấp nhận rộng rãi bởi người sửdụng lao động và người lao động ăn lương. Ngoài ra, tính linh hoạt của thị trường lao độngđược bảo đảm bằng các biện pháp khác như áp dụng lương trọn gói khả biến và thành lậpHội đồng Tiền lương Quốc gia vào năm 1973 – một cơ quan gồm ba bên để củng cố nhữngmối quan hệ giữa chính phủ, người lao động và người sử dụng lao động (giới chủ) và đưa racác chỉ đạo về điều chỉnh tiền lương hàng năm. Ngoài việc tạo ra một cơ chế để khuyến khích tiết kiệm cho nghỉ hưu, thiết kế củaCPF còn bảo đảm rằng các nhu cầu cơ bản như nhà ở, y tế và giáo dục được đáp ứng. Cácthành viên được tự do rút tiền tiết kiệm CPF của mình cho mục đích mua nhà, đầu tư tài8 Lãi suất trên tài khoản của thành viên được tính dựa trên trung bình với trọng số 20% là lãi suất tiếtkiệm và 80% là lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng của ngân hàng thương mại.9 Phần đóng góp CPF từ người sử dụng lao động đã được cắt giảm còn 10% vào tháng 01 năm 1999để đáp ứng với sự trì trệ kinh tế trong giai đoạn 1997-1999, nhưng đã được phục hồi một phần lên12% vào tháng 4 năm 2000 và sau đó lên 16% vào tháng 01 năm 2001. Nó sẽ được phục hồi hoàntoàn về mức 20% khi nền kinh tế phục hồi.John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 10 Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singaporechính, chửa bệnh, và học đại học hay cao hơn.10 Quyền đầu tư đã được tự do hóa đến mứctheo đó nếu các thành viên tin họ có thể, bằng nỗ lực của riêng mình, thu được suất sinh lợicao hơn cho số dư của mình trong CPF thì hiện nay được phép đầu tư rộng rãi vào nhiều loạisản phẩm tài chính được quản lý một cách chuyên nghiệp, kể cả tài khoản tiền gửi có kỳ hạn,những loại hợp đồng bảo hiểm được phê duyệt, tài khoản trong các quỹ tín thác và quỹ quảnlý vốn đầu tư. Tóm lại, ngoài những qui định cụ thể của nhà nước, CPF thực chất là một quỹhưu trí tự lực cánh sinh. Để duy trì mục tiêu dài hạn hơn là bảo đảm an toàn về tài chính lúc tuổi già, Chươngtrình Tổng số Tối thiểu được đưa ra vào năm 1987 nhằm bảo đảm rằng tất cả mọi người nghỉhưu đều có đủ tiền tiết kiệm để duy trì một mức sống khiêm tốn suốt tuổi già. Theo chươngtrình này, các thành viên khi bước vào ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử dụng các thị trường đề quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore part 2 Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singaporethông và sở hữu và sử dụng xe ôtô; thuế đối với lao động người nước ngoài; công nghệ củanhững công ty có liên kết với chính phủ và phát triển chuỗi xí nghiệp; và các thị trường bêntrong các cơ quan chính phủ. Ta sẽ thấy rõ thêm vấn đề khi tìm hiểu những chính sách này đãđược xây dựng như thế nào, và lưu ý việc sử dụng các nguyên tắc thị trường trong từng loạichính sách.Bảo hiểm xã hội - Quỹ Tiết kiệm Trung ươngQuỹ Tiết kiệm Trung ương (CPF) là chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc tiết kiệm khi có thunhập, dựa trên nguyên tắc tiết kiệm, tự lực và cá nhân tự chịu trách nhiệm. CPF được thànhlập năm 1955 nhằm khuyến khích tiết kiệm để có thu nhập cơ bản khi nghỉ hưu. Đây là quỹtiết kiệm bắt buộc đối với tất cả người lao động ăn lương của chính phủ và tư nhân, nhưngđược phép tùy chọn đối với các cá nhân làm nghề tự do. Hiện nay CPF có 2,8 triệu thành viên, và chỉ có 40.000 người Singapore ở độ tuổitrưởng thành không có tài khoản CPF. Ý định ban đầu chỉ thuần túy là tiết kiệm cho nghỉ hưu, CPF từ đó đã tiến triển thànhmột chương trình tiết kiệm toàn diện giúp tài trợ cho thành viên CPF về y tế, nhà ở, giáo dụcvà các nhu cầu khi nghỉ hưu. Tuy nhiên, tính chất quan trọng nhất của nó đã không thay đổikể từ 1955. Suất sinh lợi trên số dư tài khoản CPF của các thành viên phản ánh lãi suất thịtrường,8 và có mối liên kết trực tiếp giữa tiền đóng vào và lợi ích tích lũy, vì tất cả tiền đóngvào đều được ghi vào tài khoản riêng của cá nhân, không có tái phân phối giữa các thànhviên, điều này ngăn chặn những ý nghĩ cho rằng tiền hưu trí là một hàng hóa cho không. Mọi người lao động ăn lương phải đóng góp 20% thu nhập của mình vào CPF, vàngười sử dụng lao động phải góp thêm một khoản tương đương.9 Chính phủ không đóng gópgì cho CPF ngoài tiền phải đóng với vai trò là người sử dụng lao động trong khu vực công,và các ưu đãi về thuế – với CPF tiền đóng góp, tiền tích lũy và tiền rút ra đều được miễnthuế. Mặc dù tỷ lệ đóng góp CPF tổng cộng cho thấy một khoản chênh lệch lớn giữa chi phílao động và tiền lương người lao động mang về nhà, nó vẫn được thực hiện thành công vớisự bóp méo rất nhỏ đối với thị trường lao động do được chấp nhận rộng rãi bởi người sửdụng lao động và người lao động ăn lương. Ngoài ra, tính linh hoạt của thị trường lao độngđược bảo đảm bằng các biện pháp khác như áp dụng lương trọn gói khả biến và thành lậpHội đồng Tiền lương Quốc gia vào năm 1973 – một cơ quan gồm ba bên để củng cố nhữngmối quan hệ giữa chính phủ, người lao động và người sử dụng lao động (giới chủ) và đưa racác chỉ đạo về điều chỉnh tiền lương hàng năm. Ngoài việc tạo ra một cơ chế để khuyến khích tiết kiệm cho nghỉ hưu, thiết kế củaCPF còn bảo đảm rằng các nhu cầu cơ bản như nhà ở, y tế và giáo dục được đáp ứng. Cácthành viên được tự do rút tiền tiết kiệm CPF của mình cho mục đích mua nhà, đầu tư tài8 Lãi suất trên tài khoản của thành viên được tính dựa trên trung bình với trọng số 20% là lãi suất tiếtkiệm và 80% là lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng của ngân hàng thương mại.9 Phần đóng góp CPF từ người sử dụng lao động đã được cắt giảm còn 10% vào tháng 01 năm 1999để đáp ứng với sự trì trệ kinh tế trong giai đoạn 1997-1999, nhưng đã được phục hồi một phần lên12% vào tháng 4 năm 2000 và sau đó lên 16% vào tháng 01 năm 2001. Nó sẽ được phục hồi hoàntoàn về mức 20% khi nền kinh tế phục hồi.John W. Thomas vaø Lim Siong Guan Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ 10 Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính coâng Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác Baøi ñoïc gia toát hôn ôû Singaporechính, chửa bệnh, và học đại học hay cao hơn.10 Quyền đầu tư đã được tự do hóa đến mứctheo đó nếu các thành viên tin họ có thể, bằng nỗ lực của riêng mình, thu được suất sinh lợicao hơn cho số dư của mình trong CPF thì hiện nay được phép đầu tư rộng rãi vào nhiều loạisản phẩm tài chính được quản lý một cách chuyên nghiệp, kể cả tài khoản tiền gửi có kỳ hạn,những loại hợp đồng bảo hiểm được phê duyệt, tài khoản trong các quỹ tín thác và quỹ quảnlý vốn đầu tư. Tóm lại, ngoài những qui định cụ thể của nhà nước, CPF thực chất là một quỹhưu trí tự lực cánh sinh. Để duy trì mục tiêu dài hạn hơn là bảo đảm an toàn về tài chính lúc tuổi già, Chươngtrình Tổng số Tối thiểu được đưa ra vào năm 1987 nhằm bảo đảm rằng tất cả mọi người nghỉhưu đều có đủ tiền tiết kiệm để duy trì một mức sống khiêm tốn suốt tuổi già. Theo chươngtrình này, các thành viên khi bước vào ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
thị trường singapore singapore kinh tế thị trường tài liệu kinh tế giáo trình kinh tế bài giảng kinh tếGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình phân tích một số loại nghiệp vụ mới trong kinh doanh ngân hàng quản lý ngân quỹ p5
7 trang 469 0 0 -
MARKETING VÀ QUÁ TRÌNH KIỂM TRA THỰC HIỆN MARKETING
6 trang 279 0 0 -
Vai trò ứng dụng dịch vụ công của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
4 trang 243 0 0 -
7 trang 237 3 0
-
Tiểu luận triết học - Vận dụng quan điểm cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường
17 trang 228 0 0 -
Nghiên cứu lý thuyết kinh tế: Phần 1
81 trang 214 0 0 -
Đề tài Thị trường EU và khả năng xuất khẩu của Việt nam sang thị trường này
75 trang 208 0 0 -
Tiểu luận ' Dịch vụ Logistics '
18 trang 204 0 0 -
Tiểu luận: 'Tổ chức quản lý, sử dụng lao động và tiền lương trong công ty Dệt- May Hà Nội'
69 trang 179 0 0 -
229 trang 177 0 0