Sử dụng chỉ số đổi mới toàn cầu (GII) để đánh giá mức độ đổi mới sáng tạo của một quốc gia
Số trang: 20
Loại file: pdf
Dung lượng: 576.19 KB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài báo "Sử dụng chỉ số đổi mới toàn cầu (GII) để đánh giá mức độ đổi mới sáng tạo của một quốc gia" trình bày khái quát về chỉ số đổi mới toàn cầu và việc sử dụng chỉ số này để đánh giá mức độ đổi mới, sáng tạo của một quốc gia. Bài báo trình bày việc đánh giá đối với Việt Nam và từ đó đưa ra những khuyến nghị đối với việc sử dụng chỉ số. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung bài viết!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử dụng chỉ số đổi mới toàn cầu (GII) để đánh giá mức độ đổi mới sáng tạo của một quốc gia SỬ DỤNG CHỈ SỐ ĐỔI MỚI TOÀN CẦU (GII) ĐỂ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA MỘT QUỐC GIA PGS.TS. Đỗ Thị Đông Trường Đại học Kinh tế quốc dân Tóm tắt Bài báo này trình bày khái quát về chỉ số đổi mới toàn cầu và việc sử dụng chỉ số này để đánh giá mức độ đổi mới, sáng tạo của một quốc gia. Bài báo trình bày việc đánh giá đối với Việt Nam và từ đó đưa ra những khuyến nghị đối với việc sử dụng chỉ số. Từ khóa: chỉ số đổi mới toàn cầu, kinh tế tri thức, Việt Nam 1. Giới thiệu về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu Chỉ số đổi mới toàn cầu còn gọi là chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu hoặc chỉ số sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index - GII) là một bộ công cụ đánh giá, xếp hạng năng lực đổi mới sáng tạo của các quốc gia hoặc nền kinh tế. Dự án Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Toàn cầu ban đầu được xây dựng bởi Giáo sư Dutta ở Trường Kinh doanh INSEAD vào năm 2007 với mục tiêu đơn giản chỉ là làm thế nào để tìm ra cách thức đánh giá khả năng đổi mới trong một xã hội và không chỉ đơn thuần dựa vào những thước đo truyền thống như là số lượng các bài nghiên cứu và mức chi tiêu cho hoạt động nghiên cứu và phát triển. Sở dĩ mục tiêu đơn giản của dự án như vậy là vì một số lý do như: (1) đổi mới sáng tạo là vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế và tăng cường năng lực cạnh tranh của bất kỳ quốc gia nào, rất nhiều chính phủ ở các quốc gia đã đặt đổi mới vào trọng tâm của chiến lược phát triển; (2) định nghĩa của đổi mới đã được mở rộng không còn giới hạn trong việc nghiên cứu và phát triển và xuất bản các công trình nghiên cứu khoa học mà rộng hơn, có thể bao gồm cả những đổi mới về xã hội, về mô hình kinh doanh, và về công nghệ; và (3) việc công nhận và biểu dương những sáng kiến đổi mới trong các thị trường mới nổi được coi là yếu tố quan trọng để khuyến khích mọi người, đặc biệt là thế hệ kinh doanh kế tiếp trong công việc. Chỉ số đổi mới toàn cầu không phải là xếp hạng cuối cùng và chính thức về năng lực đổi mới của một quốc gia mà xuất phát từ thực trạng rằng việc đo lường kết quả và tác động của đổi mới là khá khó khăn, do vậy, nên tập trung vào đo lường môi trường và cơ sở hạ tầng của đổi mới và đánh giá những kết quả có liên quan. Khái niệm đổi mới được sử dụng để đo lường chỉ số đổi mới toàn cầu cũng là khái niệm mở rộng. Đổi mới được coi là việc đưa ra một sản phẩm/ dịch vụ mới, hoặc cải tiến đáng kể một sản phẩm/ dịch vụ đã có, thực hiện một quá trình mới, một phương pháp 99 marketing mới, hoặc một cách thức tổ chức làm việc mới, thực hiện một mô hình hoạt động mới, hoặc là một quan hệ công việc mới. Năm 2007, chỉ số đổi mới toàn cầu được công bố bởi trường kinh doanh INSEAD. Năm 2008 đến 2010, việc xây dựng chỉ số này được sự hỗ trợ của Liên đoàn Công nghiệp Ấn Độ và một phần kinh phí được hỗ trợ bởi Tập đoàn Canon. Năm 2011, việc xây dựng chỉ số được hỗ trợ bởi Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization - WIPO) và ba tổ chức khác là Liên đoàn Công nghiệp Ấn Độ, Công ty Alcatel – Lucent và Booz &Co. Năm 2012, báo cáo chỉ số đổi mới toàn cầu được xây dựng bởi sự hợp tác của INSEAD và WIPO cùng với sự hỗ trợ của các tổ chức trên. Năm 2013, lần đầu tiên, báo cáo này được ba tổ chức phối xây dựng và công bố là Trường Kinh doanh INSEAD ở Pháp và Đại học Cornell ở Mỹ và WIPO. Từ đó đến nay, ba tổ chức này tiếp tục hợp tác trong việc xây dựng và công bố báo cáo. Các tổ chức hỗ trợ cũng thay đổi, chẳng hạn như năm 2018 là Liên đoàn Công nghiệp Ấn Độ, Liên đoàn Công nghiệp Brazil, Tổ chức phi lợi nhuận SEBRAE, Công ty Strategy&. 2. Hệ tiêu chí đánh giá mức độ đổi mới sáng tạo của các quốc gia 2.1. Hệ thống chỉ tiêu GII Hệ tiêu chí đánh giá mức độ đổi mới của các quốc gia được hoàn thiện theo thời gian. Năm 2018, chỉ số GII được tích hợp từ số đo của 7 trụ cột lớn, mỗi trụ cột lớn lại được tích hợp số đo từ các trụ cột nhỏ, mỗi trụ cột nhỏ lại gồm từ 3-5 chỉ số thành phần, tổng số các chỉ số thành phần có thể thay đổi trong khoảng từ 70-80 chỉ số. Bảng 1 dưới đây trình bày các chỉ số thành phần được sử dụng để xếp hạng và năm 2018. Bảng 1. Tóm tắt các tiêu chí sử dụng để xếp hạng GII năm 2018 Trụ cột TT Chỉ số thành phần lớn/ nhỏ 1 Thể chế 1.1. Môi trường 1.1.1. Mức độ ổn định chính trị và không có bạo động/ chiến tranh chính trị 1.1.2. Hiệu quả quản lý của chính phủ 1.2. Môi trường 1.2.1. Chất lượng quy định luật pháp 1.2.2 Quy tắc của pháp luật 1.2.3 Chi phí sa thải do dư thừa 1.3. Môi trường 1.3.1. Mức độ dễ dàng để bắt đầu kinh doanh kinh doanh 1.3.2 Mức độ dễ dàng trong giải quyết phá sản 2 Nguồn nhân lực và nghiên cứu 100 Trụ cột TT Chỉ số thành phần lớn/ nhỏ 2.1. Giáo dục 2.1.1 Chi tiêu cho giáo dục 2.1.2 Chi tiêu chính phủ cho giáo dục cho mỗi học sinh 2.1.3 Tuổi thọ trung bình đến trường 2.1.4 Đánh giá về đọc, toán và khoa học 2.1.5 Tỷ lệ học sinh-giáo viên, cấp trung học 2.2. Giáo dục 2.2.1 Ghi danh đại học sau trung 2.2.2 Sinh viên tốt nghiệp ngành khoa học và kỹ thuật học phổ thông 2.2.3 Tỷ lệ di chuyển nhân lực cấp đại học cao đẳng trong nước 2.3 Nghiên cứu 2.3.1 Các nhà nghiên cứu và phát triển 2.3.2 Tổng chi cho R&D (GERD 2.3.3 Chi tiêu cho R&D trung bình của 3 công ty hàng đầu có đầu ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử dụng chỉ số đổi mới toàn cầu (GII) để đánh giá mức độ đổi mới sáng tạo của một quốc gia SỬ DỤNG CHỈ SỐ ĐỔI MỚI TOÀN CẦU (GII) ĐỂ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA MỘT QUỐC GIA PGS.TS. Đỗ Thị Đông Trường Đại học Kinh tế quốc dân Tóm tắt Bài báo này trình bày khái quát về chỉ số đổi mới toàn cầu và việc sử dụng chỉ số này để đánh giá mức độ đổi mới, sáng tạo của một quốc gia. Bài báo trình bày việc đánh giá đối với Việt Nam và từ đó đưa ra những khuyến nghị đối với việc sử dụng chỉ số. Từ khóa: chỉ số đổi mới toàn cầu, kinh tế tri thức, Việt Nam 1. Giới thiệu về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu Chỉ số đổi mới toàn cầu còn gọi là chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu hoặc chỉ số sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index - GII) là một bộ công cụ đánh giá, xếp hạng năng lực đổi mới sáng tạo của các quốc gia hoặc nền kinh tế. Dự án Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Toàn cầu ban đầu được xây dựng bởi Giáo sư Dutta ở Trường Kinh doanh INSEAD vào năm 2007 với mục tiêu đơn giản chỉ là làm thế nào để tìm ra cách thức đánh giá khả năng đổi mới trong một xã hội và không chỉ đơn thuần dựa vào những thước đo truyền thống như là số lượng các bài nghiên cứu và mức chi tiêu cho hoạt động nghiên cứu và phát triển. Sở dĩ mục tiêu đơn giản của dự án như vậy là vì một số lý do như: (1) đổi mới sáng tạo là vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế và tăng cường năng lực cạnh tranh của bất kỳ quốc gia nào, rất nhiều chính phủ ở các quốc gia đã đặt đổi mới vào trọng tâm của chiến lược phát triển; (2) định nghĩa của đổi mới đã được mở rộng không còn giới hạn trong việc nghiên cứu và phát triển và xuất bản các công trình nghiên cứu khoa học mà rộng hơn, có thể bao gồm cả những đổi mới về xã hội, về mô hình kinh doanh, và về công nghệ; và (3) việc công nhận và biểu dương những sáng kiến đổi mới trong các thị trường mới nổi được coi là yếu tố quan trọng để khuyến khích mọi người, đặc biệt là thế hệ kinh doanh kế tiếp trong công việc. Chỉ số đổi mới toàn cầu không phải là xếp hạng cuối cùng và chính thức về năng lực đổi mới của một quốc gia mà xuất phát từ thực trạng rằng việc đo lường kết quả và tác động của đổi mới là khá khó khăn, do vậy, nên tập trung vào đo lường môi trường và cơ sở hạ tầng của đổi mới và đánh giá những kết quả có liên quan. Khái niệm đổi mới được sử dụng để đo lường chỉ số đổi mới toàn cầu cũng là khái niệm mở rộng. Đổi mới được coi là việc đưa ra một sản phẩm/ dịch vụ mới, hoặc cải tiến đáng kể một sản phẩm/ dịch vụ đã có, thực hiện một quá trình mới, một phương pháp 99 marketing mới, hoặc một cách thức tổ chức làm việc mới, thực hiện một mô hình hoạt động mới, hoặc là một quan hệ công việc mới. Năm 2007, chỉ số đổi mới toàn cầu được công bố bởi trường kinh doanh INSEAD. Năm 2008 đến 2010, việc xây dựng chỉ số này được sự hỗ trợ của Liên đoàn Công nghiệp Ấn Độ và một phần kinh phí được hỗ trợ bởi Tập đoàn Canon. Năm 2011, việc xây dựng chỉ số được hỗ trợ bởi Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization - WIPO) và ba tổ chức khác là Liên đoàn Công nghiệp Ấn Độ, Công ty Alcatel – Lucent và Booz &Co. Năm 2012, báo cáo chỉ số đổi mới toàn cầu được xây dựng bởi sự hợp tác của INSEAD và WIPO cùng với sự hỗ trợ của các tổ chức trên. Năm 2013, lần đầu tiên, báo cáo này được ba tổ chức phối xây dựng và công bố là Trường Kinh doanh INSEAD ở Pháp và Đại học Cornell ở Mỹ và WIPO. Từ đó đến nay, ba tổ chức này tiếp tục hợp tác trong việc xây dựng và công bố báo cáo. Các tổ chức hỗ trợ cũng thay đổi, chẳng hạn như năm 2018 là Liên đoàn Công nghiệp Ấn Độ, Liên đoàn Công nghiệp Brazil, Tổ chức phi lợi nhuận SEBRAE, Công ty Strategy&. 2. Hệ tiêu chí đánh giá mức độ đổi mới sáng tạo của các quốc gia 2.1. Hệ thống chỉ tiêu GII Hệ tiêu chí đánh giá mức độ đổi mới của các quốc gia được hoàn thiện theo thời gian. Năm 2018, chỉ số GII được tích hợp từ số đo của 7 trụ cột lớn, mỗi trụ cột lớn lại được tích hợp số đo từ các trụ cột nhỏ, mỗi trụ cột nhỏ lại gồm từ 3-5 chỉ số thành phần, tổng số các chỉ số thành phần có thể thay đổi trong khoảng từ 70-80 chỉ số. Bảng 1 dưới đây trình bày các chỉ số thành phần được sử dụng để xếp hạng và năm 2018. Bảng 1. Tóm tắt các tiêu chí sử dụng để xếp hạng GII năm 2018 Trụ cột TT Chỉ số thành phần lớn/ nhỏ 1 Thể chế 1.1. Môi trường 1.1.1. Mức độ ổn định chính trị và không có bạo động/ chiến tranh chính trị 1.1.2. Hiệu quả quản lý của chính phủ 1.2. Môi trường 1.2.1. Chất lượng quy định luật pháp 1.2.2 Quy tắc của pháp luật 1.2.3 Chi phí sa thải do dư thừa 1.3. Môi trường 1.3.1. Mức độ dễ dàng để bắt đầu kinh doanh kinh doanh 1.3.2 Mức độ dễ dàng trong giải quyết phá sản 2 Nguồn nhân lực và nghiên cứu 100 Trụ cột TT Chỉ số thành phần lớn/ nhỏ 2.1. Giáo dục 2.1.1 Chi tiêu cho giáo dục 2.1.2 Chi tiêu chính phủ cho giáo dục cho mỗi học sinh 2.1.3 Tuổi thọ trung bình đến trường 2.1.4 Đánh giá về đọc, toán và khoa học 2.1.5 Tỷ lệ học sinh-giáo viên, cấp trung học 2.2. Giáo dục 2.2.1 Ghi danh đại học sau trung 2.2.2 Sinh viên tốt nghiệp ngành khoa học và kỹ thuật học phổ thông 2.2.3 Tỷ lệ di chuyển nhân lực cấp đại học cao đẳng trong nước 2.3 Nghiên cứu 2.3.1 Các nhà nghiên cứu và phát triển 2.3.2 Tổng chi cho R&D (GERD 2.3.3 Chi tiêu cho R&D trung bình của 3 công ty hàng đầu có đầu ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Chỉ số đổi mới toàn cầu (GII) Đánh giá mức độ đổi mới sáng tạo Đổi mới sáng tạo quốc gia Kinh tế tri thức Mô hình kinh doanhGợi ý tài liệu liên quan:
-
Trọng dụng nhân tài: Quyết làm và biết làm
3 trang 216 0 0 -
Báo cáo môn Thương mại điện tử: Dự án cửa hàng thức ăn nhanh
28 trang 162 0 0 -
Phân tích ma trận GE/McKinsey của doanh nghiệp
16 trang 127 0 0 -
21 trang 89 0 0
-
Tiểu luận: Trách nhiệm xã hội trong kinh doanh
22 trang 84 0 0 -
10 trang 78 0 0
-
25 trang 75 0 0
-
Bài giảng Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
36 trang 73 0 0 -
Tiêu chí đánh giá năng lực giảng viên đại học ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
8 trang 68 0 0 -
Bài giảng Thương mại điện tử căn bản: Chương 2 - PGS. TS. Nguyễn Văn Minh
15 trang 49 0 0