Thông tin tài liệu:
Nội dung của bài viết trình bày môi trường tầng chứa có tính đàn hồi phi tuyến; xác định vị trí và phương kẽ nứt; xác định độ rỗng của tầng chứa. Để nắm chi tiết nội dung nghiên cứu mời các bạn cùng tham khảo bài viết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử dụng sóng địa chấn trong nghiên cứu môi trường đàn hồi phi tuyến
GIỚI‱THIỆU‱KHOA‱HỌC‱-‱CÔNG‱NGHỆ
Sử‱dụng‱sóng‱₫ịa‱chấn‱trong‱nghiên‱cứu‱môi‱trường‱
₫àn‱hồi‱phi‱tuyến
Mở đầu vào độ chính xác của công tác vẽ bản đồ tính chất tầng
chứa, một việc làm rất khó khăn vì chúng ta chỉ có các dữ
Trong thăm dò dầu khí, các phương pháp địa vật
liệu do khoan cung cấp mà những dữ liệu này thường là
lý (đặc biệt là phương pháp địa chấn và địa vật lý giếng
rời rạc, ở các điểm rất xa nhau và không phân bổ đều trên
khoan) là công cụ chủ yếu để nghiên cứu cấu trúc lòng
diện tích nghiên cứu. Địa vật lý có thể giúp ích một phần
đất cùng các tham số đặc trưng môi trường. Ngày nay các
để hạn chế khó khăn này bằng ứng dụng phép phân tích
phương pháp địa vật lý được dùng kết hợp với nhau cũng
địa chấn thạch học, nhưng đây không phải là chủ đề của
như kết hợp với các phương pháp địa chất, khoan... để sử
bài viết này, hơn nữa việc tách biệt các hiệu ứng dưới sâu
dụng các thế mạnh của từng phương pháp riêng lẻ nhằm
xảy ra trong môi trường sóng truyền qua trên các tín hiệu
thu được nhiều thông tin về đối tượng nghiên cứu đã trở
địa chấn thu được trên mặt đất hoặc trên mặt biển cũng
thành phương thức chủ yếu, qua đó các phương pháp địa
không hề dễ dàng.
vật lý không chỉ phục vụ cho tìm kiếm, thăm dò mà còn
phục vụ cho giai đoạn phát triển mỏ và khai thác mỏ. Như đã nói trong phần mở đầu, trong lý thuyết
thăm dò địa chấn người ta thường chấp nhận giả thiết
Về phương diện lý thuyết, các bài toán thuận trong địa
vật lý càng ngày càng chú trọng các môi trường bất đồng đá trầm tích có tính đàn hồi tuyến tính nhưng điều đó
nhất. Tuy nhiên vì những khó khăn về toán - lý khi nghiên phần lớn không phù hợp với thực tế. Đá trầm tích chứa
cứu môi trường bất đồng nhất bất kỳ rất khó vượt qua, một lượng lớn các hạt trầm tích có bản chất thạch học
cho nên người ta thường chấp nhận xem trong những và kích thước, hình dạng rất khác nhau, chúng tiếp xúc
không gian nhất định nào đó (một lớp, một tầng, một khu với nhau theo các kiểu rất đa dạng không theo một trật
vực hẹp…) là đồng nhất. Nói cách khác, về phương diện tự nào, ngoài ra còn có những nứt vỡ, những hang hốc vi
toán - lý đó là những môi trường tuyến tính. Trong trường mô nên hệ số độ rỗng và độ thấm biến thiên theo không
hợp khi bài toán thuận không giải được vì môi trường gian không giống nhau. Trong các lỗ hổng li ti liên thông
thực có tính phi tuyến nổi trội thì phải nghiên cứu thông hoặc không liên thông của chúng còn chứa các lưu thể
qua các mô hình vật lý và từ đó sử dụng nguyên lý tương đa pha.Tính đàn hồi của chúng là hiệu ứng đàn hồi tổng
tự để nghiên cứu môi trường thực ngoài thực địa. hợp của các đặc trưng cấu trúc và thành phần vật chất
phức hợp nói trên, do đó đá trầm tích nói chung, đá chứa
Môi trường tầng chứa có tính đàn hồi phi tuyến nói riêng có tính đàn hồi phi tuyến. Trong môi trường
Đối tượng nghiên cứu quan trọng trong giai đoạn đàn hồi tuyến tính, hai sóng đàn hồi cùng truyền đồng
phát triển mỏ và khai thác là tầng chứa. Ở đó, các tính chất thời không tương tác với nhau nên nguyên lý chồng
của môi trường càng biết rõ chi tiết bao nhiêu càng có lợi sóng (principle of superposition) được tôn trọng. Trái
cho sản xuất bấy nhiêu. Như ta đã biết, tầng chứa dầu khí lại trong môi trường đàn hồi phi tuyến điều đó không
thường có thành phần thạch học không đồng nhất nên còn đúng nữa. Nếu có hai sóng đàn hồi có tần số khác
nói chung đó là môi trường đàn hồi phi tuyến (elastically nhau cùng truyền đi đồng thời trong môi trường phi
nonlinear). Các lớp đá trầm tích có tướng thạch học thay tuyến thì chúng tương tác với nhau tạo thành một sóng
đổi hoặc các tầng chứa nứt nẻ là những ví dụ điển hình hỗn hợp có tần số khác với tần số của mỗi sóng riêng lẻ.
cho loại môi trường này. Trong các mỏ dầu khai thác bằng Westervelt đã chỉ ra lần đầu tiên vào năm 1963 rằng hai
bơm ép nước không đúng quy trình khắt khe của kỹ thuật, nguồn sóng ...