Dân tộc Hán là dân tộc có nhân khẩu đông nhất và diện tích phân bố rộng nhất ở Trung Quốc. Nguồn gốc của dân tộc này có thể truy ngược lên đến thời cổ đại xa xưa, nhưng tên gọi của dân tộc thì mãi đến thời kỳ cận đại mới xác định. Theo truyền thuyết kể lại, trong thời cổ đại xa xưa đã có những thị tộc Cửu Lê, Tam Miêu, Viêm Đế Thị, Hoàng Đế Thị sinh sôi nảy nở trong vùng Trung Nguyên. Đến đời Chu Vũ Vương thì các thị tộc này trong...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC HÁN SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC HÁNDân tộc Hán là dân tộc có nhân khẩu đông nhất vàdiện tích phân bố rộng nhất ở Trung Quốc. Nguồngốc của dân tộc này có thể truy ngược lên đến thời cổđại xa xưa, nhưng tên gọi của dân tộc thì mãi đếnthời kỳ cận đại mới xác định. Theo truyền thuyết kểlại, trong thời cổ đại xa xưa đã có những thị tộc CửuLê, Tam Miêu, Viêm Đế Thị, Hoàng Đế Thị sinh sôinảy nở trong vùng Trung Nguyên. Đến đời Chu VũVương thì các thị tộc này trong vùng Trung Nguyêntự xưng là Hoa Hạ. Chung quanh thì có các dân tộcthiểu số Man, Di, Nhung, Địch.Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc cho đến khi Tần ThuỷHoàng thống nhất toàn cõi Trung Quốc, là thời kỳ đầutiên các dân tộc ở Trung Quốc tụ hợp lại với nhau. Dochiến tranh, các cuộc di dân và sự kết hôn giữanhững người thuộc những dân tộc khác nhau, bốnnước lớn trong thời kỳ này là Tần, Sở, Ngô, Việt cùngvới một số nước nhỏ nữa từ các dân tộc Di, Địch biếnthành dân tộc Hoa Hạ và hình thành một quốc giaTrung ương tập quyền đầu tiên lấy dân Hoa Hạ làmchủ thể, đó chính là đế quốc nhà Tần.Đến triều Hán, các dân tộc thiểu số Hung Nô, Tiên Ti,Để, Khương… vốn sống trong hai miền Bắc và TâyBắc, bắt đầu di cư với số lượng lớn vào nội địa.Đến hai triều Nguỵ và Tần thì các dân tộc thiểu sốvùng Quan Trung đã chiếm tới nửa số dân. Do ảnhhưởng của nền văn hoá Hoa hạ, phương thức sảnxuất cũng như phương thức sinh hoạt của họ cũng đãthay đổi lớn và họ dần dần thống nhất với hai dân tộcbản địa, khiến thời kỳ Nguỵ - Tần trở thành thời kỳthứ hai của quá trình thống nhất dân tộc.Hai triều đại Tống và Nguyên là thời kỳ thứ ba củaquá trình thống nhất dân tộc. Trong thời kỳ này cácdân tộc Khiết Đan, Nữ Chân, Mông Cổ, lần lượt xâmnhập Trung Nguyên và trong khi củng cố quyềnthống trị của mình, họ cũng bị nền văn hoá TrungNguyên đồng hoá.Đến thời kỳ này, tên gọi người Hán (Hán nhân, Hánnhi) đã trở nên khá phổ biến, nhưng vẫn chưa trởthành tên gọi chính thức của dân tộc.Khi nước Trung Hoa Quốc dân thành lập, tự xác địnhlà một nước cộng hoà của năm dân tộc Hán, Mãn,Mông, Hồi, Tạng, hai chữ “Hán tộc” mới thực sự trởthành tên gọi dân tộc của cộng đồng người Hán.Dân tộc Hán Dân tộc Hán là dân tộc có dân số đông nhấttrong 56 dân tộc ở TQ, cũng là dân tộc có dân sốđông nhất trên thế giới. Ngày nay, dân tộc Hán đã cókhoảng 1 tỉ 200 triệu dân số. Dân tộc Hán là cư dânTrung Nguyên nguyên gọi là “Hoa Hạ”, đến nay đã cólịch sử văn minh 5 nghìn năm. Sau này dân dần đồnghoá, dung hợp với các dân tộc khác. Bắt đầu từ đờiHán, gọi là dân tộc Hán. Dân tộc Hán có ngôn ngữvăn tự của mình. Ngôn ngữ Hán thuộc hệ Hán Tạngngữ, chia làm 8 thứ tiếng địa phương gồm tiếng miềnbắc, tiếng Ngô, tiếng Tương, tiếng Cán, tiếng KháchGia, tiếng Mân Nam, tiếng Mân Bắc và tiếng Việt,ngôn ngữ chung là tiếng phổ thông. Chữ Hán là mộttrong những văn tự cổ xưa nhất trên thế giới, từ giápcốt văn, kim văn dần dần diễn biến thành chữ vuônghiện nay, cả thảy có trên 80 nghìn chữ, thường dùngcó khoảng 7 nghìn chữ. Hán ngữ hiện là một trongnhững ngôn ngữ thông dụng trên quốc tế. Cơ cấu ănuống cơ bản của dân tộc Hán chủ yếu là lương thực,với các loại động vật, rau xanh là thực phẩm phụ.Trong quá trình phát triển lâu dài, dân tộc Hán đãhình thành thói quen ăn uống một ngày ăn ba bữa.Ăn cơm và ăn mì là hai loại thức ăn chính của dân tộcHán. Ngoài ra, các loại lương thực khác, như ngô, caolương, ngũ cốc, các loại khoai v.v, ăn độn cũng là mộtphần thức ăn chính ở các khu vực khác nhau. Do ảnhhưởng của các điều kiện, dân tộc Hán đã hình thànhcác món ăn khác nhau về mặt thói quen ăn uống. Mọingười thường gọi khẩu vị ăn uống của dân tộc Hán vàcác dân tộc khác khái quát là “nam ngọt, bắc mặn,đông cay, tây chua”. Hiện nay, trên cơ sở khẩu vị dângian, các nơi đã hình thành 8 hệ món ăn lớn là mónăn Hồ Nam, món ăn Tứ Xuyên, món ăn đông bắc,món ăn Quảng Đông v.v. Rượu và chè là hai thứcuống chủ yếu của dân tộc Hán. TQ là quê hương củachè, cũng là một trong những nước phát minh ra kỹthuật ủ lên men sớm nhất trên thế giới, văn hoá rượuvà văn hóa chè có nguồn gốc lâu dài tại TQ. Ngoàirượu, chè, nước hoa quả cũng trở thành thức uốngcủa mọi người ở các vùng khác nhau và mùa khácnhau. Dân tộc Hán có nhiều ngày lễ ngày tết, tết âmlịch là ngày lễ truyền thống nhất. Ngoài ra, các ngàylễ quan trọng còn có tết nguyên tiêu 15 tháng giêngâm lịch, tết thanh minh ngày 5 tháng 4 dương lịch,tết đoan ngọ ngày 5 tháng 5 âm lịch, tết trung thungày 15 tháng 8 v.v. ...