Danh mục

Sự hình thành giá cả trong nền kinh tế thị trường (phần 4)

Số trang: 5      Loại file: doc      Dung lượng: 41.50 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt làm cho các doanh nghiệp có công nghệ, thiết bị lạc hậu, quản lý yếu kém sẽ rơi vào tình trạng bị thua lỗ và phá sản. Để đứng vững được trên thị trường, các doanh nghiệp phải thường xuyên ứng dụng khoa học và kỹ thuật tiên tiến, đưa công nghệ và thiết bị mới, hiện đại vào kinh doanh, nhằm tăng năng suất lao động, giảm giá sản phẩm....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sự hình thành giá cả trong nền kinh tế thị trường (phần 4) II/ Xu hướng vận động của giá cả thị trường và các nhân tố tác động Xu hướng vận động của giá thị trường được xét trên hai mặt: 1. Đối với tổng thể hàng hoá. Sự vận động của tổng thể giá cả trên thị trường phụ thuộc vào sự tác động của hai nhóm nhân tố cơ bản sau đây: a. Những nhân tố làm cho giá cả có xu hướng giảm xuống. Sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt làm cho các doanh nghiệp có công nghệ, thiết bị lạc hậu, quản lý yếu kém sẽ rơi vào tình trạng bị thua lỗ và phá sản. Để đứng vững được trên thị trường, các doanh nghiệp phải thường xuyên ứng dụng khoa học và kỹ thuật tiên tiến, đưa công nghệ và thiết bị mới, hiện đại vào kinh doanh, nhằm tăng năng suất lao động, giảm giá sản phẩm. Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp có chi phí quá cao (tính cho một đơn vị sản phẩm) sẽ bị loại ra khỏi lĩnh vực sản xuất, lưu thông. Các đơn vị còn lại muốn tồn tại được phải quản lý chi phí chặt chẽ và có hiệu quả hơn. Đồng thời, do sử dụng công nghệ và thiết bị hiện đại hơn, nên hao phí vật chất và tiền công để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm cũng ít hơn. Các yếu tố trên đưa đến kết quả là chi phí cho một đơn vị sản phẩm ngày càng giảm xuống. Do yêu cầu của các quy luật kinh tế của thị trường, các doanh nghiệp phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường để kinh doanh và tìm mọi cách để bán được hàng của mình, cho nên nhìn chung, hàng hoá - dịch vụ sản xuất ra được tiêu thụ hút. Lượng hàng dự trữ trong từng gia đình cũng giảm đi. Việc vận dụng thường xuyên của các quy luất kinh tế của thị trường buộc các doanh nghiệp phải chú ý tới việc tăng tốc độ vòng quay của đồng vốn. Việc đầu tư được tính toán kỹ lưỡng và khoa học hơn, do đó hiệu quả kinh tế của đồng vốn ngày càng cao hơn, cơ cấu đầu tư cũng hợp lý hơn. b. Những nhân tố làm tăng giá cả. Thu nhập của người lao động và của toàn xã hội thường xuyên tăng lên. Thu nhập tăng làm cho cầu về hàng hoá - dịch vụ tăng lên, do đó tạo ra áp lực làm cho tăng giá cả (ở nhiều nước, tốc độ tăng giá thường thấp hơn tốc độ tăng của thu nhập). Yêu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng cao. Vì vậy để thoả mãn yêu cầu đó, các doanh nghiệp phải tăng thêm chi phí để tạo ra được một đơn vị giá sử dụng cung cấp cho xã hội. Tài nguyên ngày cạn cạn kiệt, việc khai thác các tài nguyên ngày càng khó khăn, chi phí khai thác ngày càng lớnm, do đó tài nguyên có xu hướng tăng lên. Sức mua của đồng tiền có xu hướng giảm, do Chính phủ duy trì lạm phát ở mức độ nhất định (lạm phát kích thích tăng trưởng). Các nhân tố nêu trên thường xuyên tác động tới giá cả. Giá cả chịu sức ép của cả hai nhân tố đó. Xu hướng của giá cả sẽ thiên về nhóm nhân tố nào tạo ra được sức ép mạnh hơn. Trong những năm qua, nhân tố thứ hai đã và đang có sức ép mạnh, làm cho mặt bằng giá cả vận động theo các xu hướng sau: + Giá cả không ổn định và có xu hướng tăng lên. Điều đó cũng có nghĩa là việc giảm giá không phải là hiện tượng phổ biến. + Giá cả ngày càng sát với giá trị hơn, và do đó cơ cấu của giá cả ngày càng hợp lý hơn. + Giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trường trong nước xích gần hơn với giá cả trên thị trường thế giới. + Các quan hệ tỷ giá lớn trong nền kinh tế quốc dân sẽ thay đổi và kéo theo sự thay đổi phức tạp của mặt bằng giá cả. Quan hệ tỷ giá thay đổi theo hướng tỷ giá giữa công nghiệp phẩm và nông sản rộng theo hướng có lợi cho công nghiệp. Còn tỷ giá hàng hoá và dịch vụ thì mở rộng theo hướng có lợi cho dịch vụ. Điều đó có nghĩa là tuỳ mặt bằng giá cả có tăng lên, nhưng tốc độ tăng giá dịch vụ thường cao hơn tốc độ tăng giá nông sản. 2. Đối với từng loại hàng hoá. Quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định sự vận động của giá cả từng loại hàng hoá. Người ta có thể thấy rõ qua hệ giữa cung và cầu và giá cả. Xét trong khoảng thời gian ngắn (vài năm), gia cả thị trường của từng loại hàng hoá có thể tăng lên, hạ xuống và ổn định. Sự tăng giảm đó là do sự thay đổi thường xuyên của quan hệ cung cầu quyết định. Khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá tăng. Khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống. Tất nhiên, nếu trên thị trường, cung cầu luôn được duy trì ở mức cân bằng thì giá cả ổn định. Trên thị trường, quan hệ cung cầu thể hiện dưới các dạng chủ yếu sau đây: - Cung nhỏ hơn cầu - Cung bằng cầu. - Cung lớn hơn cầu. Vấn đề được đặt ra là: yếu tố nào quyết định quan hệ cung cầu? Đó chính là chu kỳ kinh doanh. Sự vận động của chu kỳ kinh doanh trên thị trường quyết định sự vận động của quan hệ cung cầu. Chu kỳ kinh doanh là hiện tượng tất yếu của kinh tế thị trường. Mỗi quốc gia có một nền kinh tế thị trường khác nhau. Chu kỳ kinh doanh trên mỗi nền kinh tế thị trường đó có những đặc thù của nó. Sự vận động của chu kỳ kinh doanh và các đặc thù của nó. Sự vận động của chu kỳ kinh doanh và các đặc thù của nó chịu sự chi phối rất lớn của các yếu tố phát sinh trên thị trường trong nước và trên thị trường thế giới. Sự vận động của chu kỳ kinh doanh trên các hình thái thị trường khác nhau sẽ có những đặc thù riêng. Bất kỳ một hàng hoá nào đã tồn tại trên thị trường, hay bất kỳ một nhà kinh doanh nào đã hoạt động trên thị trường đều bị chi phối bởi chu kỳ kinh doanh. Tuy nhiên, các nhà độc quyền có khả năng hạn chế bớt sự tác động tự phát của chu kỳ kinh doanh tới quan hệ cung cầu và giá cả hàng hoá của mình. Một chu kỳ kinh doanh xuất hiện trên thị trường thường có một số thời kỳ chủ yếu sau: + Suy thoái, tức là giai đoạn mà kinh doanh giảm sút nghiêm trọng. Trong thời kỳ này có giai đoạn tiêu điều và giai đoạn ảm đạm. + Phát triển, tác là kinh doanh được hồi phục, có phát triển và tăng trưởng. + Ổn định (hưng thịnh) tức là kinh doanh phát triển và sau đó ổn định ở mức cao. Hiện tượng trên được lặp đi lặp lại trên thị trường. Khi kinh doanh bước vào thời kỳ suy thoái, nhu cầu tiêu dùng bị hạn chế, hàng hoá có ít ...

Tài liệu được xem nhiều: