Danh mục

SỰ KHÁC NHAU VỀ PHONG THỔ CÁC ĐẠO NGHỆ AN

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 172.26 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đời cổ là nước Việt Thường. Tần thuộc về Tượng Quận, Hán là quận Nhật Nam, Ngô đặt là quận Cửu Đức, Lương đổi là Đức Châu. Đường bắt đầu gọi là Hoan Châu, sau đổi là Diễn Châu. Triều nhà Đinh cũng theo như thế.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SỰ KHÁC NHAU VỀ PHONG THỔ CÁC ĐẠO NGHỆ AN Lịch triều hiến chương loại chí QUYỂN II SỰ KHÁC NHAU VỀ PHONG THỔ CÁC ĐẠO NGHỆ ANĐời cổ là nước Việt Thường. Tần thuộc về TượngQuận, Hán là quận Nhật Nam, Ngô đặt là quận CửuĐức, Lương đổi là Đức Châu. Đường bắt đầu gọi làHoan Châu, sau đổi là Diễn Châu. Triều nhà Đinhcũng theo như thế. Buổi đầu nhà Lý đổi Hoan Châulàm trại, đời Thái Tông, năm Thiên Thành thứ 3[1030] đổi gọi là Nghệ An mà Diễn Châu biệt ra làmchâu. Nhà Trần buổi đầu cũng theo như thế, gọi NghệAn là phủ ; thời Duệ Tông đổi Diễn Châu là lộ, chiaNghệ An ra làm 4 lộ là Nhật Nam và Nghệ An nam,Nghệ An bắc, Nghệ An trung. Đến lúc đặt ra Tây Đô,đổi Nghệ An làm trấn Lâm An, Diễn Châu làm trấnVọng Giang. Thời nhà Hồ đổi Diễn Châu làm phủLinh Nguyên hợp với Thanh Hoa, Cửu Chân, ÁiChâu gọi là bốn châu hộ vệ cho kinh kỳ [Tây Đô].Lúc nội thuộc nhà Minh, lại gọi là phủ Diễn Châu vàphủ Nghệ An. Nhà Lê lúc đầu cũng theo như thế, đếnkhoảng giữa năm Quang Thuận đổi làm thừa tuyênNghệ An có 9 phủ, 30 huyện, 3 châu.Nghệ An, phía nam giáp Thuận Hoá, phía Bắc liềnThanh Hoa, phía tây giáp nước Ai Lao, phía đônggiáp biển. Núi cao sông sâu, phong tục trọng hậu,cảnh tượng tươi sáng, gọi là đất có danh tiếng hơn cảở Nam Châu. Người thì thuần hòa mà chăm học, sảnvật thì nhiều thức quí của lạ. Những vị thần ở núi ởbiển phần nhiều có tiếng linh thiêng. Được khí tốt củasông núi, nên sinh ra nhiều bậc danh hiền. Lại cònkhoảng đất liền với đất của người Man, người Lạo,làm giới hạn cho hai miền Nam Bắc, thực là nơi hiểmyếu, như thành đồng ao nóng của đất nước, và là thenkhóa cho các triều đại. Phủ Đức Quang (1)Có 6 huyện :Huyện Thiên Lộc (a)Huyện La Sơn (b)Huyện Chân Phúc (c)Huyện Thanh Chương (d)Huyện Hương Sơn (e)Huyện Nghi Xuân (f)Phủ Đức Quang ở giữa trấn Nghệ An, phía tây gần AiLao, phía đông giáp biển lớn. Huyện Thiên Lộc (2),huyện Nghi Xuân, đất gần bãi biển, bờ cõi cùng liềnnhau, lấy núi Hồng Lĩnh làm giới hạn. Huyện ChânPhúc (3) ở phía bắc huyện Nghi Xuân, tiếp giáp cửabiển Song Ngư. Huyện La Sơn địa giới ở miềnthượng du, một dải sông Lam Giang, quanh vòng ởđấy. Huỵen Thanh Chương ở bên hữu sông Lam, đấytiếp liền với phủ Trà [Lân] phủ Quỳ [Châu], thế núirộng lớn, ngoằn ngoèo chạy lại. Huyện Hương Sơn ởvề phía nam, dựa theo rừng núi, cách xa biển._______________________(a) Có 37 xã, 2 trang(b) Trước gọi là La Giang, có 37 xã, 1 thôn, 2 trang.(c) Có 37 xã, 8 thôn, 1 sở(d) Trước là Thanh Giang, có 38 xã, 8 thôn, 32 trang,9 sách, 3 sở và 1 trại.(e) Có 36 xã, 7 thôn, 1 trang. Đường đi đến kinh đôphải 10 ngày. Các huyện chép trên đều thế.Phong tục trong cả phủ đều thuần hòa, chỗ nào cũngcó văn học, khoa giáp đỗ đạt thì hiện Thiên Lộc,huyện Nghi Xuân và huyện La Sơn là thịnh hơn cả.Những người làm tôi có tiếng tốt, giúp nước có đứchiền, hơn cả một châu.( Huyện Thanh Chương có 13 người đỗ, huyện ChânPhúc 4 người, chỉ có hai huyện Thiên Lộc và La Sơnđều 22 người. Huyện Thiên Lộc có Nguyễn Văn Giai,trong thời Trung hưng ra giúp nước bàn được nhiềukế hoạch hay, làm quan trải ba triều, kiêm giữ chứcsáu bộ, công lao hơn cả mọi người lúc bấy giờ. LàngBạt Trạc có Dương Trí Trạch, khoảng năm Phúc Thái[1643 - 1649] lập nhiều chiến công, coi việc ở việnKhu Mật một thời gian lâu, sau về hưu. Sự nghiệptrong khi làm việc rất trọn vẹn tốt đẹp. Huyện NghiXuân có Nguyễn Nghiễm, ở làng Tiên Điền, lúc làmtướng võ lúc làm tướng văn, công danh cao vượt hơnmọi người. Huyện La Sơn có Phan Cảnh ở làng LaiThạch, có tài văn võ, có công lao danh vọng, ngườibấy giờ ai cũng biết cả. )Về núi sông có danh tiếng thì có các núi Hồng Lĩnh,Dũng Quyết, Nam Giới, Thù Sơn, Giang Miêu, SongNgạn, Kim Nham, Thiên Nhận.( Núi Hồng Lĩnh 99 ngọn, ở địa giới huyện ThiênLộc và Nghi Xuân. Trên núi có chùa Hương Tích.Tương truyền rằng : Phật Quan Thế Âm Bồ tát ngàyxưa mang cây gậy tích (1) đến tu ở đấy, nay vẫn cònthờ cúng.Nguyễn Hy Tư (2) lên chơi chùa, có vịnh bài thơ :Khích gián tê phan đáo thượng phươngY nhiên cúc thủy thượng văn hươngSắc không ý vị thanh am ngoạiHương hỏa nhân duyên bạch thạch bàngLạc xứ lâm tuyền tương hiểu mộVọng trung thiên hải cộng thanh thươngMạn du dục tận Trang Vương thúMai ảnh, tùng thanh, hựu tịch dương.[Dịch]Bám vào kẽ núi trèo lên đến chùa trên đỉnh núiTay vốc nước vẫn còn thấy mùi thơm đưa lênTrông ngoài am cỏ, đã thấy có ý vị cảnh thiềnNơi chùa thờ cúng, dường như có nhân duyên với núiđáSớm chiều bạn với suối rừng làm cảnh vui thúNgắm trông trời biển thì thấy một màu xanh biếcChơi phiếm muốn tìm hết những thú vui của TrangVương (3) ngày xưaThì chỉ thấy bóng cây mai in dưới suối, tiếng câythông reo trong từng và bóng mặt trời chiều hôm !_________________(1) Thứ gậy người tu hành thường mang đi.(2) Nguyễn Nghiễm. Hy Tư là tên tự của ông.(3) Tục truyền ngày xưa có vua Trang Vương ( mộtông vua trong truyện tích nhà Phật ) đến tu ở chùa ...

Tài liệu được xem nhiều: