Sự nhầm lẫn chết người giữa sâm và thương lụcHiện nay trên thị trường đang có nhầm lẫn giữa cây mà người ta gọi là sâm, đẳng sâm và cây thương lục Mỹ. Điều đáng nói ở đây là cây thương lục Mỹ là cây có độc ở tất cả các bộ phận. Do hiểu lầm mà giá trên thị trường loại này (thương lục) trở nên đắt. Để thông tin rộng rãi về cây này và tránh hiểu lầm, báo SK&ĐS đăng bài viết của lương y Phan Công Tuấn về cây thương lục. Từ một bản tin trên...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sự nhầm lẫn chết người giữa sâm và thương lục Sự nhầm lẫn chết người giữa sâm và thương lụcHiện nay trên thị trường đang có nhầm lẫn giữa cây mà người ta gọi là sâm, đẳngsâm và cây thương lục Mỹ. Điều đáng nói ở đây là cây thương lục Mỹ là cây có độcở tất cả các bộ phận. Do hiểu lầm mà giá trên thị trường loại này (thương lục) trởnên đắt. Để thông tin rộng rãi về cây này và tránh hiểu lầm, báo SK&ĐS đăng bàiviết của lương y Phan Công Tuấn về cây thương lục. Từ một bản tin trên báo Quảng Nam ngày 25/6/2008 : “Mô hình trồng cây đẳng sâm đầu tiên ở Tam Kỳ đạt kết quả khả quan”, trong vòng 5 ngày sau đó có đến 3 tờ báo là Người Lao động, Nông nghiệp Việt Nam, Thanh Niên đã liên tục đăng lại nội dung bài này. Một sinh viên năm thứ 4 của Đại học Sư phạm Đà Nẵng (lớp 05 CSM2) là Lê Thị Minh Châu đã cất công đến địa chỉ các báo giới thiệu để năn nỉ xin cho kỳ được một mẩu cây, cả củ đem về định nuôi cấy mô nhân giống làm đề tài nghiên cứu khoa học. Mất một ngày tìm đọc tài liệu mà không thấy Cây đẳng sâm. cây sâm nào giống mẫu vật đang có, nên bạn sinh viên nọ đã tìm đến Văn phòng đại diện Tạp chí Cây thuốcquý (CTQ) nhờ xác định.Trước đó, sáng ngày 26/7/2004, một độc giả là bác Phạm Ngọc Tảo, 75 tuổi, cán bộ hưutrí tại tổ 64, phường An Khê, quận Thanh Khê, Đà Nẵng cũng đã tìm đến Văn phòng đạidiện miền Trung của Tạp chí với một thắc mắc nhờ giải đáp. Nguyên là bác được ngườiquen biếu một cây thuốc gọi là “sâm ngọc linh”, bác đã trồng, chăm sóc cẩn thận và thuđược củ rễ và quả hạt nhưng chưa dám sử dụng, vì ngờ ngợ thấy cây thuốc đó khôngđược giống hình cây sâm ngọc linh. Bác đã viết thư và gửi mẫu cây tới tòa soạn CTQ đểhỏi, nhưng do đường xa, mẫu cây lá bị khô héo khó xác định nên tòa soạn chưa trả lờikịp. Vì vậy bác đã lần theo địa chỉ trên tạp chí tìm đến tôi để hỏi.Sau khi tra cứu, tôi đã phát hiện ra hai mẫu vật trên không phải là đẳng sâm và sâm ngọclinh mà là cây thương lục.Thương lục còn có tên là trưởng bất lão, kim thất nương, tên khoa học là Phytolaccaacinosa Roxb. (P. esculenta Van Houtte), là cây mới được di thực du nhập vào nước tamấy thập kỷ gần đây. Trong nước vốn có sẵn loài thương lục Phytolacca decandra L. còngọi là thương lục Mỹ (Phytolacca americana L.) hay dân gian còn gọi sâm voi vì cây maulớn, sau 6 - 7 tháng cho củ to bằng cổ tay hình rất giống củ sâm (sự nhầm lẫn chết ngườitừ đây mà ra).Trên thực tế, thương lục không phải là vị thuốc xa lạ gì đối với Đông y. Trong sách thuốcđầu tiên Thần Nông bản thảo kinh xuất hiện cách đây gần 2.000 năm đã có ghi chép tỉ mỉvề vị thuốc này nhưng xếp nó vào nhóm “hạ phẩm” vì là thuốc có độc, không được dùngnhiều và lâu dài, nên ít được thầy thuốc sử dụng phổ biến. Xin trích phần giới thiệu vềcây thương lục Phytolacca acinosa Roxb trong Từ điển cây thuốc của Võ Văn Chi:Mô tả: Cây thảo sống nhiều năm, cao tới 1,5m. Rễ củ mập. Thân hình trụ nhẵn, màu xanhlục, ít phân nhánh. Lá mọc so le, phiến xoan ngược to, dài 12 - 25cm, rộng 5 - 10cm;cuống lá 3cm, đầu nhọn tù, gốc nhọn. Chùm hoa đối diện với lá song không gắn trước lá,cao 15 - 20cm; 5 lá đài trắng, nhị 8, lá noãn 8 - 10. Quả mọng, hình cầu dẹt, có 8 - 10 quảđại với vòi nhụy tồn tại, khi chín có màu tía đen, hạt đen, dẹp, hình thận hay tròn. Hoatháng 5 - 7, quả tháng 8 - 10.Bộ phận dùng: Rễ củ - Radix Phytolaccae, thường gọi là thương lục.Nơi sống và thu hái: Loài cây Ấn Độ được trồng nhiều làm cảnh và làm thuốc. Trồngbằng mầm rễ và bằng hạt. Có thể thu hoạch rễ vào mùa thu hay mùa đông. Đào rễ về, cắtbỏ rễ con, rửa sạch, thái mỏng và phơi khô. Có khi người ta ngâm vào rượu có pha mậtong rồi mới phơi hay sấy khô.Thành phần hóa học: Trong củ có một chất độc đắng gọi là phytolaccatoxin, rất nhiềumuối kali nitrat, axit oxymyristinic và một chất steroid saponin; có sách nêu có axitesculentic.Tính vị, tác dụng: Rễ có vị đắng, tính lạnh, có độc. Có tác dụng trục thủy tiêu thũng,thông lợi nhị tiện, giải độc tán kết. Ở Ấn Độ cây được xem như có tác dụng gây ngủ.Trong rễ có steroid saponin, chất này có tác dụng diệt tinh trùng.Công dụng: Thông thường trị:- Thủy thũng, cổ trướng, nhị tiện không thông.- Viêm loét cổ tử cung, bạch đới nhiều.- Đinh nhọt và bệnh mủ da. Hiện nay thường dùng để chữa những trường hợp phù nề,ngực bụng đầy trướng, cổ đau khó thở. Ngày dùng 3 - 10g dạng thuốc sắc, dùng riênghay phối hợp với các vị thuốc khác. Ở Ấn Độ dầu rễ trị đau khớp.Bài thuốc chữa bệnh có thương lục- Chữa viêm thận cấp và mạn: Thươnglục 10g, thịt lợn 60g, cho nước vào nấuchín, chia làm 3 ...