Sự tham dự của các quốc gia khác trong chiến tranh Arab-IsraelViện trợ cho Ai Cập và Syria Bắt đầu từ ngày 9-10, Liên Xô đã mở một cầu hàng không lớn đến Ai Cập và Syria. Giữa 2 ngày 9-10 và 22-10, cầu hàng không trung bình có 30 chuyến bay một ngày, sử dụng các máy bay vận tải tầm xa Antonov-12 và Antonov-22, bay từ căn cứ quân sự Hungary đến Cairo và Palmyra, bắc Damascus. Liên Xô cung cấp xe tăng, pháo và máy bay chiến đấu để thay thế cho những thứ phe Arab đã...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sự tham dự của các quốc gia khác trong chiến tranh Arab-IsraeSự tham dự của các quốc gia khác trong chiến tranh Arab-Israel Viện trợ cho Ai Cập và Syria Bắt đầu từ ngày 9-10, Liên Xô đã mở một cầu hàng không lớn đến Ai Cập vàSyria. Giữa 2 ngày 9-10 và 22-10, cầu hàng không trung bình có 30 chuyến baymột ngày, sử dụng các máy bay vận tải tầm xa Antonov-12 và Antonov-22, bay từcăn cứ quân sự Hungary đến Cairo và Palmyra, bắc Damascus. Liên Xô cung cấpxe tăng, pháo và máy bay chiến đấu để thay thế cho những thứ phe Arab đã bị mất.Cầu hàng không đạt đỉnh điểm vào ngày 12-10 với tốc độ 18 chuyến bay 1 giờ. Bên cạnh Ai Cập, Jordan, Syria và Iraq, vài quốc gia Arab khác cũng dính líuđến cuộc chiến, qua việc cung cấp vũ khí và tài chính. Số lượng hỗ trợ không đượckhẳng định chắc chắn. Saudi Arabia và Kuwait giúp đỡ tài chính và gửi một ítquân tham gia chiến trận. Maroc đưa 3 lữ đoàn ra mặt trận, người Palestine cũnggửi quân. Pakistan cử đi 16 phi công. Bangladesh gửi đến một nhóm y tế. Algeriađưa đến 18 máy bay MiG-21, Lybia đóng góp hàng trăm tên lửa Strela, một phiđội máy bay Hunter từ Iraq và những chiếc trực thăng cùng 1 lữ đoàn bộ binh từSudan. Đài phát thanh Uganda thông báo rằng tổng thống Idi Amin có đưa quânUganda đến chiến đấu với Israel. Cuba cũng gửi đến khoảng 1.500 quân bao gồmxe tăng và trực thăng, những người này đã đụng độ với quân Israel trên chiếntrường. Viện trợ cho Israel Vào lúc bắt đầu chiến sự, các nhà lãnh đạo Mỹ đã hy vọng chiều hướng chiếntranh sẽ nhanh chóng thay đổi theo hướng có lợi cho quân đội Israel vốn đượctrang bị tốt hơn và quân Arab sẽ hoàn toàn bị đánh bại trong vòng 72 đến 96 giờđồng hồ. Mọi sự trở nên rõ ràng vào ngày 9-10 rằng sẽ không có một sự đảongược nhanh như vậy xảy ra, và tổn thất của quân đội Israel vượt ngoài dự kiến. Vào cùng ngày, để đáp lại cầu hàng không của Liên Xô tới Ai Cập, tổng thốngNixon ra lệnh mở chiến dịch Nickel Grass, một cầu hàng không của Mỹ để thaythế cho tất cả các tổn thất của Israel. Israel bắt đầu nhận viện trợ vào ngày 13-10.Theo như Abraham Rabinovich, “trong khi cầu hàng không của Mỹ không thaythế ngay lập tức các thiết bị tổn thất của Israel, nó thực sự cho phép Israel dùng hếtvũ khí của họ một cách thoải mái hơn”. Vào cuối chiến dịch Nickel Grass, Mỹ đãchuyển hơn 22.000 tấn trang thiết bị cho Israel. Lệnh ngừng bắn và hậu quả tức thì Sự mắc kẹt của tập đoàn quân số 3 Ai Cập Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc đã thông qua (tỷ lệ 14-0) nghị quyết 338 kêugọi một sự ngừng bắn, chủ yếu là qua đàm phán giữa Mỹ và Liên Xô, vào ngày22-10. Nó đã kêu gọi “tất cả các bên đang giao tranh” phải “chấm dứt mọi hoạtđộng quân sự ngay lập tức”. Nghị quyết có hiệu lực vào 12 giờ sau, lúc 6h52 giờIsrael. Bởi vì nó có hiệu lực sau khi màn đêm buông xuống, các vệ tinh giám sátkhông xác định được các chiến tuyến ở đâu khi giao tranh dừng lại. Trước khi lệnhngừng bắn được thực thi, ngoại trưởng Mỹ Henry Kissenger đã nói với thủ tướngGolda Meir “Bà sẽ không vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ Washington nếu mộtđiều gì đó xảy ra trong màn đêm, trong khi tôi đang bay. Không có gì diễn ra ởWashington cho đến trưa mai”. Khi lệnh ngừng bắn bắt đầu, quân Israel còn cách mục tiêu của họ vài trăm mét– con đường cuối cùng nối Cairo và Suez. Trong tối hôm đó, Ai Cập đã vi phạ mlệnh ngừng bắn ở một số địa điểm, tiêu diệt 9 xe tăng Israel. Để trả đũa, DavidElazar thỉnh cầu sự cho phép tiếp tục tấn công quyết liệt ở phía nam, và MosheDayan đã chấp thuận. Quân đội Israel hoàn thành cuộc tấn công phía nam, chiếmgiữ con đường và chặn tập đoàn quân số 3 của Ai Cập ở phía đông kênh đào Suez. Sáng ngày hôm sau, 23-10, các máy bay do thám Liên Xô đã xác nhận là lựclượng Israel đang di chuyển về phía nam, và Liên Xô cáo buộc Israel đã vi phạ mlệnh ngừng bắn. Trong một cuộc điện đàm với Golda Meir, Henry Kissinger hỏi“Bằng cách nào mà bất cứ ai cũng biết đường ranh giới ở đâu hay đã từng ở đâutrên sa mạc?” Meir đáp lại “Họ sẽ biết, chắc chắn thế”. Kissinger khám phá ra độiquân Ai Cập bị mắc kẹt không lâu sau đó. Kissinger nhận ra tình thế đặt ra với Mỹ là một cơ hội to lớn để kéo Ai Cập khỏitầm ảnh hưởng của Liên Xô– Ai Cập hoàn toàn phụ thuộc vào Mỹ để ngăn cảnIsrael tiêu diệt đội quân mắc kẹt của họ, vốn hiện không có sự tiếp tế thức ăn vànước. Sau đó, Mỹ đã gây áp lực với Israel để nước này không tiêu diệt tập đoànquân mắc kẹt, thậm chí đe dọa sẽ ủng hộ nghị quyết của Liên Hợp Quốc buộcIsrael trở về với vị trí của họ vào ngày 22-10 nếu họ không cho phép những sự tiếptế phi quân sự tiếp cận đội quân kia. Trong cuộc điện đàm với đại sứ SimchaDinitz, Kissinger nói với vị đại sứ này rằng việc tiêu diệt tập đoàn quân số 3 củaAi Cập “là một lựa chọn không được phép tồn tại”. Khi lệnh ngừng bắn thực hiện, Israel mất phần lãnh thổ màu đỏ nhưng lại chiếmđược phần màu xanh lá cây Nguy cơ hạt nhân Trong ...