SƯU TẬP TRANH DÂN GIAN CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 145.45 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong sự phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam. Nghệ thuật tranh dân gian có một vị trí rất quan trọng. Nghệ thuật ấy bao gồm nghệ thuật của nhiều dân tộc, như: Kinh, Tày, Nùng, Cao Lan... Tất cả hợp thành nền văn hóa đa sắc tạo nên bề dày lịch sử nghệ thuật của dân tộc Việt Nam. Tranh dân gian Việt Nam được truyền bá rộng rãi trong nhân dân vì nó được in qua các bản gỗ xuất hiện rất sớm, được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Tranh dân gian được bảo tồn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SƯU TẬP TRANH DÂN GIAN CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM SƯU TẬP TRANH DÂN GIAN CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM Trong sự phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam. Nghệ thuật tranh dân gian có một vị trí rất quan trọng. Nghệ thuật ấy bao gồm nghệ thuật của nhiều dân tộc, nh ư: Kinh, Tày, Nùng, Cao Lan... Tất cả hợp thành nền văn hóa đa sắc tạo nên bề dày lịch sử nghệ thuật của dân tộc Việt Nam. Tranh dân gian Việt Nam được truyền bá rộng rãi trong nhân dân vì nó được in qua các bản gỗ xuất hiện rất sớm, được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Tranh dân gian được bảo tồn và phát huy rộng rãi là nhờ các phong tục cổ truyền. Cứ mỗi dịp Tết đến, xuân về những tờ tranh in màu sắc tươi sáng được bày bán ở khắp các khu chợ từ nông thôn tới thị thành; cả ở các vùng cao, miền núi xa xôi, nó làm cho đời sống tinh thần của ngày xuân càng thêm tươi vui, hồ hởi. Tranh mang ý nghĩa chúc tụng, và mô tả những cảnh quen thuộc đem đến những điều tốt đẹp nhất của năm mới được gửi gắm qua nội dung cụ thể của từng bức tranh đó là tranh tết. Tranh tết xuất hiện từ lâu đời, theo một số nhà nghiên cứu nghệ thuật cổ thì tranh, tượng dân gian Việt Nam xuất hiện từ thời Lý (1010 - 1225), đời Hồ (1400- 1414). Duy trì phát triển thời Lê (1533 - 1788) (Theo sách Tranh tượng Dân gian Việt Nam. NXB Mỹ thuật). Lúc đầu tranh được vẽ hay in rất đơn giản, mang tính tâm linh, huyền bí. Dân gian coi tranh như những lá bùa mang sức mạnh siêu nhiên trừ tà ma, đem lại may mắn, tốt lành cho con người. Qua các bức tranh còn được lưu giữ tới ngày nay, cho chúng ta thấy được các cảnh sinh hoạt của thành Thăng Long xưa, của các vùng quê và ngày nay còn rất nhiều các gia đình vẫn giữ truyền thống dán các bức tranh lên tường, cổng nhà để cầu may, xua đuổi điềm dữ, đón nhận điềm lành của năm mới. Sự phát triển của dòng tranh dân gian không chỉ dừng lại ở nhu cầu thỏa mãn thẩm mỹ đơn thuần nữa, mà nó đã được nâng cao, hàm chứa tinh thần giáo dục nhân cách đạo đức, nó phản ánh mọi mặt của đời sống của con người một cách sinh động và chân thực. Nhìn vào các tác phẩm tranh dân gian của Việt Nam gây cho chúng ta nguồn cảm hứng, cho nhiều tầng lớp trong xã hội đặc biệt là giới trí thức, nó gợi mở cho nhiều văn sĩ thi sĩ sáng tác được rất nhiều áng văn, vần thơ, mượn các vẻ đẹp hình ảnh ở trong tranh để nói lên nỗi lòng và tâm trạng của mình. Với cuộc sống gắn liền với sản xuất nông nghiệp của nhân dân ta, phụ thuộc vào thiên nhiên rất lớn. Tranh dân gian được nhân dân gửi gắm nhu cầu tín ngưỡng, việc chơi tranh ngày tết lại càng phát triển, nhu cầu sử dụng nhiều đây là điều làm cho các nghệ nhân phải tìm cách in được nhiều bản để phục vụ cho nhu cầu của đông đảo quần chúng, do vậy kỹ thuật in bản gỗ tranh tết đ ã được truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Sự phát triển của dòng tranh khắc gốc dân gian được sản xuất ở nhiều địa phương, ở từng làng mà nó có những tên vùng gắn với từng vùng sản xuất ra nó như: Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Tây cũ), Nam Hoành (Nghệ An); Sình (Huế). Tranh của các dân tộc miền núi phía Bắc. Tranh của những vùng miền lại có sắc thái và kỹ thuật riêng, từ đề tài, chất liệu đến kỹ thuật khắc ván in đã tạo ra sự phong phú và đa dạng và tính cách nghệ thuật riêng biệt. ở đồng bằng Bắc Bộ nổi lên hai dòng tranh nổi tiếng đó là Đông Hồ và Hàng Trống. Tranh Đông Hồ - Làng Đông Hồ nằm ven sông Đường cách Hà Nội khoảng 40km về phía đông thuộc về tỉnh Bắc Ninh, Đông Hồ có truyền thống l à một làng nghề nghệ thuật lâu đời. Qua văn bia dựng từ thời nhà Mạc (TK16) cho chúng ta ước đoán tuổi của Làng. Hiện nay nghề in tranh khắc gỗ của Đông Hồ phát triển rất tốt, đ ược nhà nước đầu tư bài bản nhằm lưu giữ nét đẹp văn hóa, nghệ thuật của đất nước phục vụ cho công tác nghiên cứu, du lịch... Các tác phẩm tranh tiêu biểu của Đông Hồ là loại tranh khắc gỗ in trên giấy điệp, các hình được in bằng cả nét lẫn màu, nét khắc được cắt gọt cạnh hình chân thang, thanh và tinh tế. Tranh Đông Hồ các mảng màu của hình được in trước, mỗi mảng in màu là một bản khắc riêng, in màu xong cuối cùng mới dùng bản khắc nét in chặn lại bằng các nét to đậm, tạo thành một đường viền làm ổn định các hình trên tranh. Giấy được in là giấy dó được làm từ cây dó nên rất dai bền, trên mặt giấy được quét một lớp điệp tạo cho giấy cứng xốp và nổi lên ánh của điệp phát sáng lung linh. Màu mực in nét được chế từ than của lá tre, cỏ cây, đất đá thiên nhiên từ trên rừng dưới biển. Màu xanh mát được chiết từ lá chàm, màu vàng từ hoa hòe hay quả dành dành tạo màu đỏ tươi, còn màu trắng óng ánh được làm từ vỏ con trai điệp nghiền mịn. Khi các màu này được pha trộn với hồ nếp tạo ra sự kết dính trên bề mặt của giấy. Còn dòng tranh Hàng Trống được làm ra từ các gia đình nghệ nhân ở Hà Nội và một số địa phương cùng làm theo một phong cách, chủ yếu là tranh thờ. Loại tranh này có từ rất lâu. Tên gọi “Tranh Hàng Trống” được chỉ định chung cho một loại tranh có cùng kỹ thuật, phong cách để phân biệt với dòng tranh sản xuất ở làng Đông Hồ. Tranh Hàng Trống được làm bằng kỹ thuật in bản nét trước sau đó mới tô màu bằng bút lông mềm rộng bản, một nửa thì chấm màu còn nửa kia của bút chấm nước lã, tranh được tô màu theo cách vờn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt và tạo khối đơn giản. Nói đến tranh dân gian là chúng ta thấy một cách cốt lõi của nó là tranh nghệ thuật đồ họa, được làm ra bởi kỹ thuật khắc trên ván gỗ (cây Mít, cây Thị, cây thực Mực) các hình nồi để in trên giấy. Một bản khắc có chất lượng tốt sẽ được in ra nhiều bức tranh có giá trị nhằm mục đích phục vụ nhu cầu của đông đảo nhân dân. Các hình ảnh trong tranh dân gian là những hình ảnh thực, của đời sống hàng ngày nhưng đã được các nghệ nhân chắt lọc tạo dựng các đường nét mang tính giản lược, khái quát cốt sao gây được sự rung cảm cho người xem, mọi yếu tố về không gian không được coi trọng. Các hình mang tính ước lệ, các khuôn mặt trong tranh rất ngây ngô, vênh váo hồn nhiên, các hình trong tranh thờ thì nghiê ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SƯU TẬP TRANH DÂN GIAN CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM SƯU TẬP TRANH DÂN GIAN CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM Trong sự phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam. Nghệ thuật tranh dân gian có một vị trí rất quan trọng. Nghệ thuật ấy bao gồm nghệ thuật của nhiều dân tộc, nh ư: Kinh, Tày, Nùng, Cao Lan... Tất cả hợp thành nền văn hóa đa sắc tạo nên bề dày lịch sử nghệ thuật của dân tộc Việt Nam. Tranh dân gian Việt Nam được truyền bá rộng rãi trong nhân dân vì nó được in qua các bản gỗ xuất hiện rất sớm, được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Tranh dân gian được bảo tồn và phát huy rộng rãi là nhờ các phong tục cổ truyền. Cứ mỗi dịp Tết đến, xuân về những tờ tranh in màu sắc tươi sáng được bày bán ở khắp các khu chợ từ nông thôn tới thị thành; cả ở các vùng cao, miền núi xa xôi, nó làm cho đời sống tinh thần của ngày xuân càng thêm tươi vui, hồ hởi. Tranh mang ý nghĩa chúc tụng, và mô tả những cảnh quen thuộc đem đến những điều tốt đẹp nhất của năm mới được gửi gắm qua nội dung cụ thể của từng bức tranh đó là tranh tết. Tranh tết xuất hiện từ lâu đời, theo một số nhà nghiên cứu nghệ thuật cổ thì tranh, tượng dân gian Việt Nam xuất hiện từ thời Lý (1010 - 1225), đời Hồ (1400- 1414). Duy trì phát triển thời Lê (1533 - 1788) (Theo sách Tranh tượng Dân gian Việt Nam. NXB Mỹ thuật). Lúc đầu tranh được vẽ hay in rất đơn giản, mang tính tâm linh, huyền bí. Dân gian coi tranh như những lá bùa mang sức mạnh siêu nhiên trừ tà ma, đem lại may mắn, tốt lành cho con người. Qua các bức tranh còn được lưu giữ tới ngày nay, cho chúng ta thấy được các cảnh sinh hoạt của thành Thăng Long xưa, của các vùng quê và ngày nay còn rất nhiều các gia đình vẫn giữ truyền thống dán các bức tranh lên tường, cổng nhà để cầu may, xua đuổi điềm dữ, đón nhận điềm lành của năm mới. Sự phát triển của dòng tranh dân gian không chỉ dừng lại ở nhu cầu thỏa mãn thẩm mỹ đơn thuần nữa, mà nó đã được nâng cao, hàm chứa tinh thần giáo dục nhân cách đạo đức, nó phản ánh mọi mặt của đời sống của con người một cách sinh động và chân thực. Nhìn vào các tác phẩm tranh dân gian của Việt Nam gây cho chúng ta nguồn cảm hứng, cho nhiều tầng lớp trong xã hội đặc biệt là giới trí thức, nó gợi mở cho nhiều văn sĩ thi sĩ sáng tác được rất nhiều áng văn, vần thơ, mượn các vẻ đẹp hình ảnh ở trong tranh để nói lên nỗi lòng và tâm trạng của mình. Với cuộc sống gắn liền với sản xuất nông nghiệp của nhân dân ta, phụ thuộc vào thiên nhiên rất lớn. Tranh dân gian được nhân dân gửi gắm nhu cầu tín ngưỡng, việc chơi tranh ngày tết lại càng phát triển, nhu cầu sử dụng nhiều đây là điều làm cho các nghệ nhân phải tìm cách in được nhiều bản để phục vụ cho nhu cầu của đông đảo quần chúng, do vậy kỹ thuật in bản gỗ tranh tết đ ã được truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Sự phát triển của dòng tranh khắc gốc dân gian được sản xuất ở nhiều địa phương, ở từng làng mà nó có những tên vùng gắn với từng vùng sản xuất ra nó như: Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Tây cũ), Nam Hoành (Nghệ An); Sình (Huế). Tranh của các dân tộc miền núi phía Bắc. Tranh của những vùng miền lại có sắc thái và kỹ thuật riêng, từ đề tài, chất liệu đến kỹ thuật khắc ván in đã tạo ra sự phong phú và đa dạng và tính cách nghệ thuật riêng biệt. ở đồng bằng Bắc Bộ nổi lên hai dòng tranh nổi tiếng đó là Đông Hồ và Hàng Trống. Tranh Đông Hồ - Làng Đông Hồ nằm ven sông Đường cách Hà Nội khoảng 40km về phía đông thuộc về tỉnh Bắc Ninh, Đông Hồ có truyền thống l à một làng nghề nghệ thuật lâu đời. Qua văn bia dựng từ thời nhà Mạc (TK16) cho chúng ta ước đoán tuổi của Làng. Hiện nay nghề in tranh khắc gỗ của Đông Hồ phát triển rất tốt, đ ược nhà nước đầu tư bài bản nhằm lưu giữ nét đẹp văn hóa, nghệ thuật của đất nước phục vụ cho công tác nghiên cứu, du lịch... Các tác phẩm tranh tiêu biểu của Đông Hồ là loại tranh khắc gỗ in trên giấy điệp, các hình được in bằng cả nét lẫn màu, nét khắc được cắt gọt cạnh hình chân thang, thanh và tinh tế. Tranh Đông Hồ các mảng màu của hình được in trước, mỗi mảng in màu là một bản khắc riêng, in màu xong cuối cùng mới dùng bản khắc nét in chặn lại bằng các nét to đậm, tạo thành một đường viền làm ổn định các hình trên tranh. Giấy được in là giấy dó được làm từ cây dó nên rất dai bền, trên mặt giấy được quét một lớp điệp tạo cho giấy cứng xốp và nổi lên ánh của điệp phát sáng lung linh. Màu mực in nét được chế từ than của lá tre, cỏ cây, đất đá thiên nhiên từ trên rừng dưới biển. Màu xanh mát được chiết từ lá chàm, màu vàng từ hoa hòe hay quả dành dành tạo màu đỏ tươi, còn màu trắng óng ánh được làm từ vỏ con trai điệp nghiền mịn. Khi các màu này được pha trộn với hồ nếp tạo ra sự kết dính trên bề mặt của giấy. Còn dòng tranh Hàng Trống được làm ra từ các gia đình nghệ nhân ở Hà Nội và một số địa phương cùng làm theo một phong cách, chủ yếu là tranh thờ. Loại tranh này có từ rất lâu. Tên gọi “Tranh Hàng Trống” được chỉ định chung cho một loại tranh có cùng kỹ thuật, phong cách để phân biệt với dòng tranh sản xuất ở làng Đông Hồ. Tranh Hàng Trống được làm bằng kỹ thuật in bản nét trước sau đó mới tô màu bằng bút lông mềm rộng bản, một nửa thì chấm màu còn nửa kia của bút chấm nước lã, tranh được tô màu theo cách vờn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt và tạo khối đơn giản. Nói đến tranh dân gian là chúng ta thấy một cách cốt lõi của nó là tranh nghệ thuật đồ họa, được làm ra bởi kỹ thuật khắc trên ván gỗ (cây Mít, cây Thị, cây thực Mực) các hình nồi để in trên giấy. Một bản khắc có chất lượng tốt sẽ được in ra nhiều bức tranh có giá trị nhằm mục đích phục vụ nhu cầu của đông đảo nhân dân. Các hình ảnh trong tranh dân gian là những hình ảnh thực, của đời sống hàng ngày nhưng đã được các nghệ nhân chắt lọc tạo dựng các đường nét mang tính giản lược, khái quát cốt sao gây được sự rung cảm cho người xem, mọi yếu tố về không gian không được coi trọng. Các hình mang tính ước lệ, các khuôn mặt trong tranh rất ngây ngô, vênh váo hồn nhiên, các hình trong tranh thờ thì nghiê ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
trào lưu nghệ thuật nghệ thuật dân gian mỹ thuật truyền thông nghệ thuật dân gian biểu tượng văn hóa kiến thức mỹ thuậtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 338 0 0 -
50 năm ngày Marilyn Monroe qua đời: Đẹp đến đau lòng
11 trang 135 0 0 -
Giải bài Kinh tế, văn hoá thế kỉ XVI – XVIII SGK Lịch sử 7
3 trang 114 0 0 -
7 trang 81 0 0
-
Sơ lược về Mỹ thuật thời Trần (1226-1400)
10 trang 54 0 0 -
10 trang 51 0 0
-
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 49 1 0 -
Hoạt động giáo dục giá trị nghệ thuật dân gian - Dân tộc trong học đường ở thành phố Hồ Chí Minh
11 trang 43 0 0 -
MỖI BỨC TRANH MỸ THUẬT - MỘT TẤM LÒNG
11 trang 43 0 0 -
Nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt: Phần 1
135 trang 41 0 0