Danh mục

Suy dinh dưỡng thấp còi và cách phòng chống

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 177.79 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Thư Viện Số

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ở Việt Nam, theo số liệu điều tra toàn quốc của Viện Dinh dưỡng (2010) thì tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi là 29,3%. So với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thì SDD thấp còi ở trẻ em nước ta còn ở mức cao. Chương trình phòng chống SDD trẻ em phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2020 là giảm tỷ lệ SDD thấp còi xuống 23%.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Suy dinh dưỡng thấp còi và cách phòng chống Suy dinh dưỡng thấp còi và cách phòng chống( 4:24 PM | 12/10/2011 )Ở Việt Nam, theo số liệu điều tra toàn quốc của Viện Dinhdưỡng (2010) thì tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) thấp còi ở trẻdưới 5 tuổi là 29,3%. So với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thếgiới (WHO) thì SDD thấp còi ở trẻ em nước ta còn ở mức cao.Chương trình phòng chống SDD trẻ em phấn đấu đạt mục tiêuđến năm 2020 là giảm tỷ lệ SDD thấp còi xuống 23%.Thế nào là trẻ bị SDD thấp còi?Trẻ thấp còi là trẻ có chiều cao theo tuổi thấp hơn so với trẻ bìnhthường cùng tuổi. Hiện nay, đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ emthường dựa vào chuẩn tăng trưởng của WHO 2006. Điểm ngưỡngZscore dưới trừ 2 độ lệch chuẩn (Các yếu tố nguy cơ gây SDD thấp còiCân nặng sơ sinh thấp dưới 2.500g bao gồm cả trẻ đẻ non vì SDDbào thai, trẻ không những nhẹ cân mà chiều dài cũng thấp. Nguyênnhân chủ yếu do người mẹ thiếu dinh dưỡng hoặc mắc bệnh trongthời kỳ mang thai làm cho thai nhi chậm phát triển trong tử cung.Chế độ nuôi dưỡng: dinh dưỡng có ảnh hưởng nhiều đến sự tăngtrưởng và phát triển của trẻ. Nếu khẩu phần thiếu hụt protein nănglượng và các vi chất dinh dưỡng (kẽm, sắt, iod, vitamin A… )không những làm cho trẻ bị SDD nhẹ cân mà còn ảnh hưởng đếnphát triển chiều cao của trẻ, nhất là ở những trẻ không được nuôibằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý (ăn bổ sung sớm, thức ăn đơnđiệu, không đủ 4 nhóm thực phẩm).Bệnh tật: trong 2 năm đầu tiên nếu trẻ mắc các bệnh nhiễm khuẩn(tiêu chảy, viêm phổi, giun sán…) tái đi tái lại nhiều lần thườngảnh hưởng đến phát triển chiều cao trong những năm sau vì nhiễmkhuẩn làm cho trẻ biếng ăn, nôn trớ, khẩu phần đưa vào cơ thể bịthiếu hụt đồng thời giảm hấp thu các chất dinh dưỡng. Một nghiêncứu được tiến hành ở Brazil cho thấy trong 2 năm đầu đời nếutrung bình trẻ bị 7 đợt tiêu chảy thì lúc 7 tuổi chiều cao của trẻ sẽthấp hơn 3,6cm so với trẻ cùng tuổi không mắc bệnh.Di truyền: trong gia đình nếu bố mẹ có chiều cao thấp thì con cáicủa họ cũng có nguy cơ thấp còi. Mặc dù yếu tố di truyền quy địnhtiềm năng cho sự phát triển của trẻ nhưng tác động của môi trườngnhất là khi mức sống nâng cao, chế độ dinh dưỡng được cải thiệnthì sự tăng trưởng chiều cao có thể tăng hơn ở những thế hệ sau.Yếu tố kinh tế văn hóa xã hội: SDD thấp còi cũng thường xảy ra ởnhững trẻ sống trong các hộ gia đình nghèo, đông con.Hậu quả của SDD thấp còiHậu quả của SDD thấp còi thường ảnh hưởng đến phát triển thểlực, trí lực, sức khỏe và bệnh tật trước mắt và lâu dài. Trẻ thấp còisẽ có chiều cao thấp ở tuổi trưởng thành ảnh hưởng đến tầm vócnòi giống dân tộc. Sự thiếu hụt dinh dưỡng kéo dài làm giảm khảnăng nhận thức, trí thông minh, kết quả học tập, năng suất lao độngvà thu nhập quốc dân. Trẻ bị SDD thấp còi thường hay mắc cácbệnh nhiễm khuẩn do suy giảm hệ miễn dịch và sau này cũng dễ cónguy cơ thừa cân, béo phì, đái tháo đường, tim mạch, tăng huyếtáp… Ở bé gái khi lớn lên nếu chiều cao thấp dễ gây đẻ khó, nguycơ đẻ trẻ nhẹ cân (dưới 2.500g), chiều dài thấp và vòng đời SDDthấp còi lại tái diễn. Một hội thi về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ tại Đăk Lăk.Phòng chống SDD thấp còiThời cơ vàng để phòng chống SDD thấp còi có hiệu quả là thời kỳbà mẹ mang thai và trẻ em trong 2 năm đầu đời.Chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ có thai: dinh dưỡng của bà mẹ trongthời kỳ mang thai có ảnh hưởng nhiều đến phát triển bào thai. Chếđộ ăn phải đảm bảo nhu cầu protein, năng lượng, vitamin vàkhoáng chất để phòng chống thiếu năng lượng trường diễn, thiếumáu, thiếu canxi… Theo khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng (2007)nhu cầu năng lượng của phụ nữ mang thai cao hơn phụ nữ khôngcó thai là 360kcal/ngày trong 3 tháng giữa và 475kcal/ngày trong 3tháng cuối và nhu cầu protein cao hơn từ 10-18g/ngày. Thức ăn đadạng và có đủ 4 nhóm thực phẩm (ngũ cốc khoai củ, đạm động vật,đậu đỗ, dầu mỡ, rau xanh hoa quả). Ngoài chế độ ăn nên uốngthêm viên sắt, acid folic (60mg sắt nguyên tố + 400mcg acid folic)để phòng chống thiếu máu và dị tật ống thần kinh thai nhi. Cầnkhám thai định kỳ và theo dõi tăng cân từng quý để bổ sung dinhdưỡng kịp thời.Chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ trong 2 năm đầu đời: Đây là giaiđoạn chuyển tiếp về nuôi dưỡng trẻ từ trong bụng mẹ đến môitrường bên ngoài tử cung, trẻ bắt đầu bú mẹ, ăn bổ sung rồi tiến tớicác chế độ ăn cùng gia đình. Trong giai đoạn này trẻ tăng trưởngvà phát triển nhanh nhưng hệ miễn dịch chưa hoàn chỉnh nên dễmắc các bệnh nhiễm khuẩn nhất là tiêu chảy, viêm đường hô hấpcấp… sữa mẹ là thức ăn tốt nhất đối với trẻ nhỏ, cho trẻ bú sớmngay sau đẻ, bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu (180 ngày). Từ 6tháng tuổi trở lên cho ăn bổ sung, thức ăn bổ sung có đủ 4 nhómthực phẩm cùng với bú mẹ kéo dài 18-24 tháng. Khi trẻ bị bệnhkhông được kiêng khem quá mức, tiếp tục cho trẻ bú mẹ, ăn nhiềubữa trong ngày, thức ăn dễ tiêu hóa, đủ dưỡng chất.Ngoài ra bổ sung vi chất dinh dưỡng vitamin A, D, kẽm và tiêmchủng cho trẻ sẽ r ...

Tài liệu được xem nhiều: