Danh mục

Tả cây đào mùa xuân

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 222.11 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Cây đào (danh pháp khoa học: Prunus persica) là một loài cây có lẽ có nguồn gốc từ Trung Quốc, được trồng để lấy quả hay hoa. Nó là một loài cây sớm rụng lá thân gỗ nhỏ, có thể cao tới 5–10 m. Lá của nó có hình mũi mác, dài 7–15 cm và rộng 2–3 cm. Hoa nở vào đầu mùa xuân, trước khi ra lá; hoa đơn hay có đôi, đường kính 2,5–3 cm, màu hồng với 5 cánh hoa. Quả đào cùng với quả của anh đào, mận, mơ là các loại quả hạch.Quả của...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tả cây đào mùa xuân Tả cây đào mùa xuân Cây đào (danh pháp khoa học: Prunus persica) là một loài cây có lẽ có nguồngốc từ Trung Quốc, được trồng để lấy quả hay hoa. Nó là một loài cây sớm rụng láthân gỗ nhỏ, có thể cao tới 5–10 m. Lá của nó có hình mũi mác, dài 7–15 cm và rộng2–3 cm. Hoa nở vào đầu mùa xuân, trước khi ra lá; hoa đơn hay có đôi, đường kính2,5–3 cm, màu hồng với 5 cánh hoa. Quả đào cùng với quả của anh đào, mận, mơ làcác loại quả hạch.Quả của nó có một hạt to được bao bọc trong một lớp vỏ gỗ cứng(gọi là hột), cùi thịt màu vàng hay ánh trắng, có mùi vị thơm ngon và lớp vỏ có lôngtơ mềm như nhung. Tên gọi khoa học persica có lẽ có từ niềm tin ban đầu của người châu Âu chorằng đào có nguồn gốc ở khu vực Ba Tư (Persia) (hiện nay là Iran). Sự đồng thuận lớntrong giới các nhà thực vật học ngày nay đã cho rằng nó có nguồn gốc từ Trung Quốcvà được đưa vào Ba Tư cũng như khu vực Địa Trung Hải theo con đường tơ lụa vàokhoảng thời gian ban đầu của lịch sử nhân loại, có lẽ vào khoảng thiên niên kỷ 2 TCN(Huxley và những người khác, 1992). Các giống đào trồng được chia thành hai loại là hột rời và hột dính, phụthuộc vào việc hột có dính với cùi thịt hay không; cả hai loại này đều có cùi thịt trắnghay vàng. Quả đào với cùi thịt trắng thông thường có vị rất ngọt và ít vị chua, trongkhi loại có cùi thịt màu vàng thông thường có vị chua kèm theo vị ngọt, mặc dù điềunày cũng có sự dao động lớn. Cả hai màu thông thường đều có các vệt đỏ trong lớpthịt của chúng. Loại đào cùi trắng, ít chua là phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bảnvà các quốc gia châu Á xung quanh, trong khi người châu Âu và Bắc Mỹ ưa thích loạicó cùi thịt màu vàng và có vị chua hơn. Đào được biết đến tại Trung Quốc và Nhật Bản không chỉ như là một loại quảphổ biến mà còn gắn liền với nhiều truyện dân gian và tín ngưỡng. Momotaro (ĐàoThái Lang), một trong những nhân vật bán lịch sử và cao quý nhất tại Nhật Bản, đượcsinh ra trong một quả đào khổng lồ trôi theo dòng sông. Tại Trung Quốc, quả đào được coi là được các vị tiên ăn do các tính chất huyềnbí của nó đối với sự trường thọ dành cho những người ăn nó. Ngọc Hoàng, vị thần caiquản thiên đình, có vợ tên là Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu mời các vị tiên ănnhững quả đào trường sinh và như thế đã đảm bảo cho sự tồn tại vĩnh cửu của họ. Cácvị tiên được Tây Vương Mẫu thết đãi một bữa tiệc sang trọng tại hội bàn đào. Các vịtiên phải chờ đợi 6.000 năm để có được bữa tiệc sang trọng này; cây đào tiên chỉ ra lásau mỗi một nghìn năm và cần tới 3.000 năm để làm quả chín. Các bức tượng bằngngà voi họa lại những người tham dự bữa tiệc của Tây Vương Mẫu thông thường cóba quả đào. Quả đào đóng một vai trò quan trọng trong tín ngưỡng Trung Hoa và là biểutượng của sự trường thọ. Một ví dụ liên quan đến quả đào là chuyện về Trương ĐạoLăng (张道陵), được nhiều người cho là người đã sáng lập ra Lão giáo. Trương QuảLão (張果老), một trong số Bát Tiên của người Trung Quốc, thường được họa lại làmang theo quả đào trường sinh. Hoa đào cũng được đánh giá cao trong văn hóa TrungHoa, tương tự như hoa mai (mơ). Đào là một trong những cây ăn quả quan trọng nhất, sản lượng toàn thế giớihàng năm đạt tới 7 - 8 triệu tấn. Cách đây hơn 300 năm, Đào đã được trồng ở các tínhmiền Tây Bắc Trung Quốc, hiện nay Đào được trồng nhiều ở các nước: Trung Quốc,Mỹ, Ý, Pháp, Nhật, Achentina… ở nước ta, Đào được trồng nhiều ở các tỉnh: Lào Cai,Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Đào cũng được trồng ở vùng núi các tỉnh miền Bắcnhưng hiệu quả kinh tế kém, ở vùng đồng bằng, Đào được trồng chủ yếu để cho hoa làchính. Đào có vị thơm, ngon, giàu chất dinh dưỡng. Trong 100g cùi thịt quả Đào có0,9g protein, 0,1g lipit, 7g gluxit, 8mg canxi, 20mg phốtpho, 10mg sắt, 2mg caroten,8,3mg Vitamin B1, 2mg Vitamin B2, 6mg Vitamin C, các axit hữu cơ: xitric, tactric,clorogenic. Đào rất bổ dưỡng nhưng không nên ăn nhiều vì Đào tính ấm, vị ngọt,chua, ăn nhiều dễ sinh bốc hoả, đầy chướng bụng, sinh mụn nhọt. Ngoài thịt quả, các bộ phận khác của cây Đào đều là những vị thuốc quý. Nhânhạt Đào (Đào nhân) vị đắng ngọt, tính bình vào 2 kinh tâm và can, có tác dụng pháhuyết tan ứ, làm tan đờm, nhuận tràng, điều hoà chức năng cơ quan hô hấp, giảm ho,chữa bế kinh, đau bụng kinh, cao huyết áp, viêm ruột thừa, tụ huyết sưng đau do chấnthương, điều trị chứng tắc nghẽn mạch máu. Rễ Đào: Dùng ngoài da chữa sưng đau, sắc uống chữa viêm gan vàng da. Nhựa thân cây Đào: Chữa kiết lỵ ra máu, đái tháo đường, viêm phế quản. Cành Đào: Chữa sốt rét. Lá Đào: Có amygdalin, axit tanic, cumarin. Thường dùng lá Đào diệt sâu bọ:Ngâm vào nước tù đọng diệt được bọ gậy, cho vào hố xí diệt được giòi, đun lấy nướcchữa lở ngứa, ghẻ, viêm âm đạo. Hoa Đào: Có tác dụng hạ khí, tiêu báng nước, lợi tiểu. Dầu hoa Đào làm kembôi mặt, da mặt ...

Tài liệu được xem nhiều: