Tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 525.61 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, gồm: An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang, Long An, Sóc Trăng, Kiên Giang, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ. Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự nhiên gần 4 triệu ha, với hơn 18 triệu dân sinh sống, chiếm 19,8% dân số cả nước. Cùng với các dân tộc khác, cộng đồng người Khmer ở ĐBSCL có khoảng 1.201.691 người, chiếm tỷ lệ 10,66 % so với dân số chung của 9 tỉnh, thành phố và chiếm tỷ lệ 6,93% so với dân số 13 tỉnh, thành phố. Cộng đồng người Khmer vùng ĐBSCL tập trung đông ở các tỉnh như: Sóc Trăng 397.014 người, Trà Vinh có 318.288 người, Kiên Giang 213.310 người, An Giang 91.018 người. Mặc dù là vùng kinh tế trọng điểm, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhưng hiện nay vùng ĐBSCL đang đối mặt với tình trạng BĐKH, nó đã gây nên những xáo trộn lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng người Khmer nơi đây. Do đó, việc tìm ra một giải pháp thích hợp để hạn chế tác động của BĐKH đến đời sống cộng đồng người Khmer vùng ĐBSCL đang đặt ra một cách cấp thiết hơn bao giờ hết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG KỶ YẾU HỘI THẢO TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KHMER VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Phạm Thị Thu Hà Phạm Ngọc Hòa Đ ồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, gồm: An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang, Long An, Sóc Trăng, Kiên Giang, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ. Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự nhiên gần 4 triệu ha, với hơn 18 triệu dân sinh sống, chiếm 19,8% dân số cả nước. Cùng với các dân tộc khác, cộng đồng người Khmer ở ĐBSCL có khoảng 1.201.691 người, chiếm tỷ lệ 10,66 % so với dân số chung của 9 tỉnh, thành phố và chiếm tỷ lệ 6,93% so với dân số 13 tỉnh, thành phố. Cộng đồng người Khmer vùng ĐBSCL tập trung đông ở các tỉnh như: Sóc Trăng 397.014 người, Trà Vinh có 318.288 người, Kiên Giang 213.310 người, An Giang 91.018 người. Mặc dù là vùng kinh tế trọng điểm, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhưng hiện nay vùng ĐBSCL đang đối mặt với tình trạng BĐKH, nó đã gây nên những xáo trộn lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng người Khmer nơi đây. Do đó, việc tìm ra một giải pháp thích hợp để hạn chế tác động của BĐKH đến đời sống cộng đồng người Khmer vùng ĐBSCL đang đặt ra một cách cấp thiết hơn bao giờ hết. 1. Quá trình hình thành cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long Cộng đồng người Khmer có mặt ở vùng đất ĐBSCL từ rất sớm. Thời sơ sử của người Khmer ở ĐBSCL vẫn chưa được làm sáng tỏ lắm, do thiếu sự sưu tầm nghiên cứu và thiếu nhiều cứ liệu, nhưng dẫu sao người ta cũng có thể hiểu được sự tồn tại của người Khmer đã từng sống ở đây lâu đời, qua các hiện vật Trường Đại học Đồng Tháp. Học viện Chính trị khu vực IV. 169 khảo cổ đã khai quật được ở Óc Eo và rải rác ở các tỉnh ĐBSCL. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn phát hiện ngôi đền cổ ở ấp Lưu Cừ, xã Lưu Nghiệp Anh, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh; ngôi chùa cổ ở ấp Trà Kháo, xã Hòa Ân, Cầu Kè, Trà Vinh; Linh Sơn Tự ở xã Vọng Thê có tượng Shiva bằng đá cao 5m và hai bia có chữ viết bằng ngôn ngữ Khmer có niên đại khoảng 1.800 năm. Các hiện vật phát hiện được ở các nơi trên bao gồm nhiều dạng và được làm bằng sắt, đồng, đất sét, xương thú hoặc đá như: búa, đục, bàn nạo, dao, đá mài, khuôn đúc, lưỡi hái, con thoi, vòng đeo tai, đồ trang sức, mũi tên, lưỡi câu, kim, chuỗi, miễng nồi, hủ, chén có hoa văn trang trí... Do tìm thấy những hiện vật ấy, cho nên người ta có cơ sở để nhận định về đời sống của người Khmer thời sơ sử, là sống định cư thành từng phum, sóc rải rác trên khắp vùng đất ĐBSCL. Có thể nói vùng ĐBSCL xưa kia, có nhiều kênh rạch, cù lao, rừng rậm với muỗi mòng, kiến, mọt, rắn rết, đỉa, vắt tha hồ sinh sôi nảy nở 1... Trước khi người Việt và người Hoa đến khai thác, nơi đây vẫn còn là một vùng thiên nhiên hoang sơ đầy bí ẩn, với các bộ tộc người Khmer sống rải rác tự cung tự cấp trên những giồng đất cao bên cạnh các ngôi chùa. Khi người Việt và người Hoa đến, cùng với người Khmer bản địa là những người đầu tiên khẩn hoang rừng rậm, đào kênh thoát nước, vượt qua thử thách khắc nghiệt đẩy lùi thiên nhiên hoang dã, đối phó với thú dữ, dịch bệnh... Đây là quá trình mở rộng đất đai, xây dựng thôn ấp, phân chia địa phận và phân chiếm ruộng đất. Chính quá trình lao động chinh phục thiên nhiên đã tạo ra sự đồng cảm gắn bó giữa bốn tộc người Việt, Khmer, Hoa và Chăm với nhau, hình thành một tình cảm ruột thịt, tình làng nghĩa xóm, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống. Khi nghiên cứu về vùng môi sinh của các cư dân ở ĐBSCL, các nhà nghiên cứu đã chia vùng ĐBSCL thành 3 vùng môi sinh: vùng nội địa, vùng ven biển và vùng đồi núi Tây Nam. Thứ nhất, vùng nội địa chính là vùng cư trú và khai phá đầu tiên của những lớp cư dân Khmer di cư đến ĐBSCL vào trước thế kỷ XVII, tức là trước khi có sự xuất hiện của các lớp cư dân người Việt 2. Những làng Khmer ở vùng nội địa thường xây dựng trên những giồng đất mà độ cao cách mặt đất ruộng không quá 5 mét. Trong thời gian đầu, khi khai phá ruộng lúa và lập nên những xóm làng đầu tiên gọi là Phum. Các phum phát triển và trở thành những Sóc. Thứ hai, vùng ven biển của người Khmer chủ yếu 1 Sơn Nam (1997), Cá tính miền Nam, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.11. 2 Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.21 ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG KỶ YẾU HỘI THẢO TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KHMER VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Phạm Thị Thu Hà Phạm Ngọc Hòa Đ ồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, gồm: An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang, Long An, Sóc Trăng, Kiên Giang, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ. Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự nhiên gần 4 triệu ha, với hơn 18 triệu dân sinh sống, chiếm 19,8% dân số cả nước. Cùng với các dân tộc khác, cộng đồng người Khmer ở ĐBSCL có khoảng 1.201.691 người, chiếm tỷ lệ 10,66 % so với dân số chung của 9 tỉnh, thành phố và chiếm tỷ lệ 6,93% so với dân số 13 tỉnh, thành phố. Cộng đồng người Khmer vùng ĐBSCL tập trung đông ở các tỉnh như: Sóc Trăng 397.014 người, Trà Vinh có 318.288 người, Kiên Giang 213.310 người, An Giang 91.018 người. Mặc dù là vùng kinh tế trọng điểm, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhưng hiện nay vùng ĐBSCL đang đối mặt với tình trạng BĐKH, nó đã gây nên những xáo trộn lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng người Khmer nơi đây. Do đó, việc tìm ra một giải pháp thích hợp để hạn chế tác động của BĐKH đến đời sống cộng đồng người Khmer vùng ĐBSCL đang đặt ra một cách cấp thiết hơn bao giờ hết. 1. Quá trình hình thành cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long Cộng đồng người Khmer có mặt ở vùng đất ĐBSCL từ rất sớm. Thời sơ sử của người Khmer ở ĐBSCL vẫn chưa được làm sáng tỏ lắm, do thiếu sự sưu tầm nghiên cứu và thiếu nhiều cứ liệu, nhưng dẫu sao người ta cũng có thể hiểu được sự tồn tại của người Khmer đã từng sống ở đây lâu đời, qua các hiện vật Trường Đại học Đồng Tháp. Học viện Chính trị khu vực IV. 169 khảo cổ đã khai quật được ở Óc Eo và rải rác ở các tỉnh ĐBSCL. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn phát hiện ngôi đền cổ ở ấp Lưu Cừ, xã Lưu Nghiệp Anh, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh; ngôi chùa cổ ở ấp Trà Kháo, xã Hòa Ân, Cầu Kè, Trà Vinh; Linh Sơn Tự ở xã Vọng Thê có tượng Shiva bằng đá cao 5m và hai bia có chữ viết bằng ngôn ngữ Khmer có niên đại khoảng 1.800 năm. Các hiện vật phát hiện được ở các nơi trên bao gồm nhiều dạng và được làm bằng sắt, đồng, đất sét, xương thú hoặc đá như: búa, đục, bàn nạo, dao, đá mài, khuôn đúc, lưỡi hái, con thoi, vòng đeo tai, đồ trang sức, mũi tên, lưỡi câu, kim, chuỗi, miễng nồi, hủ, chén có hoa văn trang trí... Do tìm thấy những hiện vật ấy, cho nên người ta có cơ sở để nhận định về đời sống của người Khmer thời sơ sử, là sống định cư thành từng phum, sóc rải rác trên khắp vùng đất ĐBSCL. Có thể nói vùng ĐBSCL xưa kia, có nhiều kênh rạch, cù lao, rừng rậm với muỗi mòng, kiến, mọt, rắn rết, đỉa, vắt tha hồ sinh sôi nảy nở 1... Trước khi người Việt và người Hoa đến khai thác, nơi đây vẫn còn là một vùng thiên nhiên hoang sơ đầy bí ẩn, với các bộ tộc người Khmer sống rải rác tự cung tự cấp trên những giồng đất cao bên cạnh các ngôi chùa. Khi người Việt và người Hoa đến, cùng với người Khmer bản địa là những người đầu tiên khẩn hoang rừng rậm, đào kênh thoát nước, vượt qua thử thách khắc nghiệt đẩy lùi thiên nhiên hoang dã, đối phó với thú dữ, dịch bệnh... Đây là quá trình mở rộng đất đai, xây dựng thôn ấp, phân chia địa phận và phân chiếm ruộng đất. Chính quá trình lao động chinh phục thiên nhiên đã tạo ra sự đồng cảm gắn bó giữa bốn tộc người Việt, Khmer, Hoa và Chăm với nhau, hình thành một tình cảm ruột thịt, tình làng nghĩa xóm, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống. Khi nghiên cứu về vùng môi sinh của các cư dân ở ĐBSCL, các nhà nghiên cứu đã chia vùng ĐBSCL thành 3 vùng môi sinh: vùng nội địa, vùng ven biển và vùng đồi núi Tây Nam. Thứ nhất, vùng nội địa chính là vùng cư trú và khai phá đầu tiên của những lớp cư dân Khmer di cư đến ĐBSCL vào trước thế kỷ XVII, tức là trước khi có sự xuất hiện của các lớp cư dân người Việt 2. Những làng Khmer ở vùng nội địa thường xây dựng trên những giồng đất mà độ cao cách mặt đất ruộng không quá 5 mét. Trong thời gian đầu, khi khai phá ruộng lúa và lập nên những xóm làng đầu tiên gọi là Phum. Các phum phát triển và trở thành những Sóc. Thứ hai, vùng ven biển của người Khmer chủ yếu 1 Sơn Nam (1997), Cá tính miền Nam, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.11. 2 Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.21 ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tác động của biến đổi khí hậu Biến đổi khí hậu đến đời sống cộng đồng Đời sống cộng đồng người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long Cộng đồng người KhmerTài liệu liên quan:
-
Đề thi giữa học kì 2 môn Địa lí lớp 9 năm 2022-2023 có đáp án - Trường THCS Phan Bội Châu, Hiệp Đức
6 trang 342 0 0 -
Đề thi học sinh giỏi môn Địa lí lớp 12 năm 2023-2024 có đáp án - Trường THPT Mai Anh Tuấn, Thanh Hóa
10 trang 155 0 0 -
15 trang 142 0 0
-
Báo cáo thực tập: Đánh giá các hệ thống canh tác chính ở đồng bằng sông Cửu Long
20 trang 139 0 0 -
Phát triển sản xuất lúa gạo ở địa phương trong điều kiện biến đổi khí hậu
4 trang 134 0 0 -
8 trang 115 0 0
-
2 trang 109 0 0
-
4 trang 87 0 0
-
7 trang 78 0 0
-
10 trang 70 0 0