Danh mục

Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ 4.0 tới ngành thủy sản

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 389.49 KB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết đưa ra những tác động của cách mạng 4.0 với ngành thủy sản để từ đó đưa ra một só kiến nghị hàm giá giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển của ngành thủy sản trong giai đoạn tới. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ 4.0 tới ngành thủy sản TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ 4.0 TỚI NGÀNH THỦY SẢN TS. Phạm Minh Đạt TS. Lê Thị Việt Nga Trƣờng Đại học Thƣơng mại Thủy sản là một ngành đóng góp một lượng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong thời gian vừa qua. Để có thể vững bước phát triển trong giai đoạn tới đặc biệt là khi chúng ta bước vào một cuộc cách mạng mới - cách mạng công nghiệp 4.0 – thì việc tìm hiểu những tác động của của cuộc cách mạng này với ngành thủy sản và rất cần thiết. Trong bài viết này, tác giả đưa ra những tác động của cách mạng 4.0 với ngành thủy sản để từ đó đưa ra một só kiến nghị hàm giá giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển của ngành thủy sản trong giai doạn tới Từ khóa: Thủy sản, cách mạng 4.0, xuất khẩu thủy sản 1. Sơ lƣợc về Cách mạng công nghiệp 4.0 Theo Gartner, Cách mạng Công nghiệp 4.0 (hay Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư) xuất phát từ khái niệm 'Industrie 4.0' trong một báo cáo của chính phủ Đức năm 2013. 'Industrie 4.0' kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa Công nghiệp, Kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong. Nếu định nghĩa từ Gartner còn khó hiểu, Klaus Schwab, người sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế Giới mang đến cái nhìn đơn giản hơn về Cách mạng Công nghiệp 4.0 như sau: 'Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học'. Theo ông Klaus Schwab, tốc độ đột phá của Cách mạng Công nghiệp 4.0 hiện 'không có tiền lệ lịch sử'. Khi so sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, 4.0 đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Hơn nữa, nó đang phá vỡ hầu hết ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Và chiều rộng và chiều sâu của những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị. Đặc điểm nổi bật của CMCN 4.0 là tập trung chủ yếu vào sản xuất thông minh, dựa trên các thành tựu đột phá trong công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano…, với nội dung cơ bản là tạo ra cấu trúc và sự vận hành mới cho nền sản xuất, dựa trên 4 lĩnh vực chính: 1/ Lĩnh vực kỹ thuật số, bao gồm trí tuệ nhân tạo, internet, lưu trữ và xử lý dữ liệu lớn; 2/ Lĩnh vực vật lý, bao gồm in 3D, vật liệu mới, robot cao cấp, xe tự lái; 3/Lĩnh vực công nghệ sinh học; 4/ Lĩnh vực năng lượng tái tạo. 51 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG Hình 1: Đặc trưng các cuộc cách mạng công nghệ lần thứ nhất đến lần thứ tư 2. Tình hình khai thác và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam giai đoạn vừa qua 2.1. Về khai thác Với chủ trương thúc đẩy phát triển của chính phủ, hoạt động nuôi trồng thủy sản đã có những bước phát triển mạnh, sản lượng liên tục tăng cao trong các năm qua, bình quân đạt 12,77%/năm, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng tổng sản lượng thủy sản của cả nước. Tuy nhiên, sản lượng thủy sản từ hoạt động khai thác tăng khá thấp trong thời gian qua với mức tăng trưởng bình quân là 6,42%/năm do sự cạn kiệt dần từ nguồn thủy sản tự nhiên và trình độ hoạt động khai thác đánh bắt chưa được cải thiện. Nguồn: Tổng cục Thủy sản Việt Nam Biểu đồ 1: Sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản từ năm 1995 - 2016 Tổng sản lượng thủy sản sản xuất năm 2016 đạt hơn 6,726 triệu tấn, tăng 2,5% so với năm 2015. - Khai thác thủy sản Trong năm 2016, do công ty Formosa đưa chất thải ra biển khiến ngư dân ở các tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ phải ngừng đánh bắt ở vùng biển ven bờ và vùng lộng trong nhiều tháng làm ảnh hưởng đến khai thác biển của các tỉnh này nói riêng và ảnh hưởng đến khai thác thủy sản của cả nước nói chung. Tuy nhiên, sản lượng khai thác thủy sản ở các tỉnh khác vẫn cao nên sản lượng khai thác thủy sản cả nước năm 2016 vẫn đạt kết quả khả quan, đạt 3.076 nghìn tấn, tăng 3% so với năm 2015 trong đó: khai thác biển đạt 2.876 ngàn tấn, tăng 2,21 % so với năm 2015; khai thác nội địa ước đạt 200 ngàn tấn giảm 1% so với năm 2015. 2.2. Về xuất khẩu Năm 2016, thủy sản tiếp tục khẳng định là ngành hàng xuất khẩu mũi nhọn lớn nhất trong kim ngạch của toàn ngành với giá trị xuất khẩu đạt 7,05 tỷ USD. Tổng sản lượng thủy sản cả năm ước đạt hơn 6,7 triệu tấn. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam năm 2016 là Hoa Kỳ và Nhật Bản trong đó kim 52 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG ngạch xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ chiếm 20,4% trong tổng kim ngạch, đạt 1,44 tỷ USD, tăng 9,7% so với năm 2015; xuất khẩu sang Nhật Bản chiếm 15,6%, đạt 1,1 tỷ USD, tăng 6%. Tiếp theo là thị trường Trung Quốc chiếm 9,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, đạt 685,1 triệu USD, tăng 52% so với năm 2015. Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ 4 với giá trị nhập khẩu chiếm 8,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu và đạt 608 triệu USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, xuất khẩu thủy sản trong năm 2016 sang đa số các thị trường chính đều đạt mức tăng trưởng dương so với năm 2015. Trong đó, đáng ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: