Với mục đích làm cải thiện kết quả kích thích buồng trứng bằng GnRHa, các tác giả đã thử sử dụng estriol liều thấp sớm từ đầu vòng kinh trước khi điều trị bằng GnRHa. Các kết quả cho thấy với phương pháp sử dụng estriol này, các tỷ lệ phát triển nội mạc tử cung, chỉ số cổ tử cung, phát triển nang noãn, phóng noãn đã cao hơn có ý nghĩa so với phương pháp không dùng estriol.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tác dụng hỗ trợ sinh sản của estrogen trong kích thích buồng trứng bằng GnRHa
Tác dụng hỗ trợ sinh sản của estrogen trong kích
thích buồng trứng bằng GnRHa
Với mục đích làm cải thiện kết quả kích thích buồng trứng bằng GnRHa, các tác
giả đã thử sử dụng estriol liều thấp sớm từ đầu vòng kinh trước khi điều trị bằng
GnRHa. Các kết quả cho thấy với phương pháp sử dụng estriol này, các tỷ lệ phát
triển nội mạc tử cung, chỉ số cổ tử cung, phát triển nang no ãn, phóng noãn đã cao
hơn có ý nghĩa so với phương pháp không dùng estriol.
I. Đặt vấn đề
Vô sinh do không phóng noãn gặp từ 35% đến 50% các trường hợp vô sinh nữ
nguyên phát. Để điều trị kích thích phát triển nang noãn trực tiếp lên buồng trứng,
người ta dùng chủ yếu FSH, gián tiếp lên vùng dưới đồi, tuyến yên, dùng
clomiphen citrat, chất ức chế aromatase và GnRHa.
Nếu có phương hướng làm tăng nhạy cảm buồng trứng bằng cách làm tăng thụ thể
FSH của buồng trứng thì sẽ làm tăng được tác dụng của các thuốc kích thích nói
trên và đỡ tốn kém, đỡ nguy hiểm.
Estrogen làm tăng thụ thể FSH tại nang noãn buồng trứng là điều đã được biết từ
lâu nhưng hầu như chưa được quan tâm đúng mức. Từ năm 2000, chúng tôi đã sử
dụng estriol và estradiol để làm tăng hiệu quả kích thích phát triển nang noãn của
clomiphen citrat và GnRHa [2, 3, 4, 5].
GnRHa đã được dùng phổ biến trong Thụ tinh trong ống nghiệm để ức chế hàng
hoạt sự phát triển nang noãn với liều cao hoặc liều thấp kéo dài, sau đó kích thích
phát triển nang noãn bằng GnRHa liều thấp kết hợp với FSH để đạt được nhiều
nang noãn phát triển và chín. Thế nhưng, trong điều trị vô sinh thông thường, rất ít
khi người ta dùng GnRHa liều thấp đơn độc để kích thích một nang noãn phát
triển. Tỷ lệ đạt nang noãn phát triển dưới tác dụng của GnRHa chỉ đạt được 22%
theo Van der Meer [7]. Kết quả này là rất thấp.
Trong công trình nghiên c ứu này, chúng tôi muốn xác định vai trò hỗ trợ sinh sản
của estriol trong những trường hợp kích thích buồng trứng bằng GnRHa với 2 mục
tiêu:
1. Xác định tỷ lệ phát triển của nội mạc tử cung và chỉ số cổ tử cung trong trường
hợp dùng và không dùng estriol phối hợp với GnRHa.
2. Xác định tỷ lệ chín nang noãn, phóng noãn trong tr ường hợp dùng và không
dùng estriol phối hợp với GnRHa.
II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là những phụ nữ đến khám vô sinh tại BV
Phụ Sản Trung ương từ tháng 10/2006 đến tháng 6/2007 có tình trạng nang noãn
kém phát triển.
- Điều kiện chọn đối tượng nghiên cứu là:
+ Tuổi từ 35 trở xuống.
+ Không có bất thường về độ thông của vòi trứng.
+ Người chồng không có bất thường về tinh dịch đồ.
- Tiêu chuẩn loại trừ là:
+ Những bệnh nhân có suy tuyến yên.
+ Những bệnh nhân có suy sớm buồng trứng.
+ Những bệnh nhân có dính buồng tử cung.
Phương pháp nghiên cứu là thử nghiệm lâm sàng có đối chứng, cỡ mẫu được
tính theo công thức:
Trong đó:
n1: Số trường hợp nghiên cứu trong nhóm can thiệp.
n2: Số trường hợp nghiên cứu trong nhóm chứng.
p1: Tỷ lệ dự kiến đạt kết quả trong nhóm can thiệp = 0,52.
p2: Tỷ lệ đạt kết quả trong nhóm chứng = 0,22 theo Van der Meer [7].
Z2(a,b) = 10,5
Thay vào công thức, có n1 = n2 = 49,1 làm tròn thành 50 trường hợp.
Quy trình nghiên cứu:
Trong nhóm can thiệp: bệnh nhân được uống Ovestin (estriol) 1mg cách ngày 1
viên, từ ngày đầu của vòng kinh tổng cộng 3 viên.
- Sau khi uống hết 3 viên Ovestin thì tiêm Diphereline (GnRHa) 0,1mg x 1 ống
dưới da cách ngày, tổng cộng tiêm 3 ống.
Trong nhóm chứng: Bệnh nhân không được uống Ovestin, thay vào là viên giả
dược Actisô, và sau đó được tiêm Diphereline (GnRHa) 0,1mg cách ngày.
Vào ngày sau khi tiêm hết Diphereline (GnRHa) đối với cả 2 nhóm, siêu âm
đường âm đạo đo kích thước nang noãn, đo độ dày nội mạc tử cung, dịch cùng đồ
Douglas (nếu có). Xem cổ tử cung, xác định chỉ số cổ tử cung.
Cách đánh giá:
Nang noãn ³ 16mm đường kính coi là nang noãn chín.
Nang noãn chín, méo mó, có dịch ở cùng đồ Douglas coi như đã phóng noãn.
Nội mạc tử cung dày ³ 8mm coi như đủ khả năng làm tổ tốt trong buồng tử cung.
Chỉ số cổ tử cung ³ 8 điểm coi như có thể cho tinh trùng thâm nhập tốt vào chất
nhầy cổ tử cung.
Có thai trong buồng tử cung được xác định qua xét nghiệm que hCG (+), siêu âm
đường âm đạo có túi ối và tim thai trong buồng tử cung.
Cách tính toán số liệu: tính độ khác biệt p cho những số trung bình bằng phương
pháp Student t, cho những tỷ lệ % bằng phương pháp tính c2. Nếu p > 0,05, được
coi là không có ý nghĩa thống kê.
III. Kết quả nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu chúng tôi tổng kết bằng 2 bảng dưới đây.
Bảng 1: So sánh một số yếu tố trong nhóm can thiệp và nhóm chứng
Nhóm can Nhóm chứng
Những yếu tố so sánh p
thiệp
Tuổi trung bình người bệnh (năm) 29,9 ± 3,6 29,1±3,9 ...