Tái điều trị với Peginterferon+Ribavirin: niềm hy vọng của những trường hợp không đáp ứng với điều trị
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 137.47 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trường hợp lâm sàng: Bệnh nhân nam 49 tuổi, người da trắng, thể trọng 79.1 kg được theo dõi đánh giá điều trị. Bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm viêm gan siêu vi C, genotype 1B năm 1998. Sinh thiết gan tại thời điểm này cho thấy bệnh lý gan giai đoạn 3, độ 3 với tình trạng viêm gan thoái hóa mỡ (steatohepatitis) mức độ trung bình – nặng, xơ hoá quanh tế bào và quanh tĩnh mạch, có trình trạng viêm hoại tử nhẹ tích tụ các neutrophil, cho thấy tổn thương gan thoái hóa mỡ không...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tái điều trị với Peginterferon+Ribavirin: niềm hy vọng của những trường hợp không đáp ứng với điều trị Tái điều trị với Peginterferon+Ribavirin: niềm hy vọng của những trường hợp không đáp ứng với điều trị Trường hợp lâm sàng: Bệnh nhân nam 49 tuổi, người da trắng, thể trọng 79.1 kg được theo dõi đánh giá điều trị. Bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm viêm gan siêu vi C, genotype 1B năm 1998. Sinh thiết gan tại thời điểm này cho thấy bệnh lý gan giai đoạn 3, độ 3 với tình trạng viêm gan thoái hóa mỡ (steatohepatitis) mức độ trung bình – nặng, xơ hoá quanh tế bào và quanh tĩnh mạch, có trình trạng viêm hoại tử nhẹ tích tụ các neutrophil, cho thấy tổn thương gan thoái hóa mỡ không do rượu. Vào thời điểm chẩn đoán, mức độ RNA HCV > 1 triệu copies / mL, AST=70U/L và ALT= 164U/L. Bệnh nhân được điều trị với liệu pháp kết hợp interferon+ribavirin ngay sau khi được chẩn đoán. Sau 3 tháng điều trị men gan giảm về trị số bình thường, không có dữ liệu về RNA HCV. Sau 6 tháng, RNA HCV là 62000 copies/mL và ALT=100U/L. Mặc dù RNA HCV có giảm đáng kể nhưng không thể tính được mức độ giảm log do labo làm xét nghiệm đã không pha loãng mẫu thử để có được trị số của RNA HCV ở thời điểm ban đầu trước khi điều trị. Vào cuối quá trình điều trị, trị số ALT trong giới hạn bình thường, RNA HCV tiếp tục giảm còn 20000 copies/mL nhưng không hòan toàn sạch virus. Sáu tháng sau điều trị, RNA HCV tăng trở lên 530.000 copies /mL và ALT tăng lên 112U/L. Vào thời điểm bệnh nhân được đưa vào theo dõi đánh giá này, RNA HCV > 1 triệu copies /mL. Bác sĩ điều trị và bệnh nhân thảo luận về khả năng đạt SVR bằng cách tái điều trị với peginterferon+ribavirin. Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cưú tái điều trị và được bắt thăm ngẫu nhiên nhận peginterferon alfa 2b 1.0ug/kg và ribavirin 1000 – 1200 mg/ngày. Vào tuần 12, RNA HCV của bệnh nhân giảm > 2-log, trị số tuyệt đối Một số lớn những trường hợp không đáp ứng với interferon+ribavirin hoặc những trường hợp tái phát có thể có cơ hội sạch virus với liệu pháp peginterferon+ribavirin nhờ hiệu quả cải thiện của pegylated interferon. Đã có một số nghiên cứu về tái điều trị với peginterferon+ribavirin đối với những trường hợp điều trị ban đầu không đáp ứng hoặc tái phát. Những nghiên cứu này có đặc điểm là không đồng nhất trong thiết kế nghiên cứu, đặc biệt ở liều thuốc sử dụng. Những dữ liệu có được từ những nghiên cứu này cho thấy rõ ràng peginterferon+ribavirin có thể làm sạch virus trên một số đáng kể những người trước đó không đáp ứng với điều trị (25-40%), mặc dù là tỷ lệ SVR thấp. Điều này liên quan với tỷ lệ lớn các trường hợp tái phát sau 12 tháng điều trị, một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ được ghi nhận trong các thử nghiệm lâm sàng lớn điều trị cho những bệnh nhân chưa được điều trị trước đó. Những kết quả tốt hơn được ghi nhận trong nhóm tái phát với điều trị kết hợp trước đó. Jacobson và cộng sự thực hiện một nghiên cứu tái điều trị những bệnh nhân hoặc không đáp ứng hoặc tái phát sau điều trị interferon+ribavirin cũng nh ư cho một nhóm nhỏ bệnh nhân không đáp ứng với đơn trị liệu interferon. Bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên hoặc điều trị bằng peginterferon alfa 2b 1.0ug/kg QW với ribavirin 1000 – 1200 mg /ngày hoặc peginterferon alfa 2b 1.5ug/kg QW với ribavirin 800 mg /ngày. Mọi bệnh nhân được điều trị 48 tuần và theo dõi 24 tu ần. Nghiên cứu thực hiện trên 321 bệnh nhân, dữ liệu SVR có được trên 306 bệnh nhân. Kết quả được Jacobson trình bày ở hội nghị hàng năm AASLD Boston lần thứ 53 (1-5 tháng 11 năm 2002) cho biết các bệnh nhân nhiễm genotype 1 (n=198) không đáp ứng với điều trị kết hợp trước đó đã đạt được tỷ lệ đáp ứng cao với liều peginterferon cao hơn. Tuy nhiên vào cuối giai đoạn theo dõi 24 tuần, tỷ lệ bệnh nhân đạt SVR thấp, không có sự khác biệt thống kê giữa nhóm peginterferon alfa 2b 1.0ug/kg và peginterferon alfa 2b 1.5ug/kg (5% so với 9% tương ứng) . Tỷ lệ 9% với peginterferon liều cao tương tự kết quả của các nghiên cứu khác đã làm trước đây. Những người không đáp ứng bị nhiễm genotype không phải 1 (n=17) cũng có tỷ lệ SVR thấp: kết quả chính xác là 25% đối với liệu pháp peginterferon liều thấp và 13% đối với liệu pháp peginterferon liều cao. Các dữ liệu này xác định rằng các genotype 2 và 3 có sự đề kháng thực sự, trong nhóm đánh giá tiêu biểu sự nhạy cảm đối với điều trị. Đối với tất cả các genotypes, trị liệu kết hợp áp dụng cho những người bị tái phát (n=49) đạt tỷ lệ SVR khá hơn. 44% các trường hợp bệnh nhân được cho liều cao peginterferon đã đạt được SVR, so với nhóm bệnh nhân đ ược cho liều thấp peginterferon là 35% đạt được SVR (P=NS). Tỷ lệ đạt SVR của những bệnh nhân không đáp ứng với đơn trị liệu interferon (n=42) là thấp nhất: kết quả chính xác là 24% các trường hợp bệnh nhân được cho liều thấp peginterferon và 14% các trường hợp bệnh nhân được cho liều cao peginterferon (P=NS). Một vài nghiên cứu khác về tái điều trị cũng được trình bày ở h ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tái điều trị với Peginterferon+Ribavirin: niềm hy vọng của những trường hợp không đáp ứng với điều trị Tái điều trị với Peginterferon+Ribavirin: niềm hy vọng của những trường hợp không đáp ứng với điều trị Trường hợp lâm sàng: Bệnh nhân nam 49 tuổi, người da trắng, thể trọng 79.1 kg được theo dõi đánh giá điều trị. Bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm viêm gan siêu vi C, genotype 1B năm 1998. Sinh thiết gan tại thời điểm này cho thấy bệnh lý gan giai đoạn 3, độ 3 với tình trạng viêm gan thoái hóa mỡ (steatohepatitis) mức độ trung bình – nặng, xơ hoá quanh tế bào và quanh tĩnh mạch, có trình trạng viêm hoại tử nhẹ tích tụ các neutrophil, cho thấy tổn thương gan thoái hóa mỡ không do rượu. Vào thời điểm chẩn đoán, mức độ RNA HCV > 1 triệu copies / mL, AST=70U/L và ALT= 164U/L. Bệnh nhân được điều trị với liệu pháp kết hợp interferon+ribavirin ngay sau khi được chẩn đoán. Sau 3 tháng điều trị men gan giảm về trị số bình thường, không có dữ liệu về RNA HCV. Sau 6 tháng, RNA HCV là 62000 copies/mL và ALT=100U/L. Mặc dù RNA HCV có giảm đáng kể nhưng không thể tính được mức độ giảm log do labo làm xét nghiệm đã không pha loãng mẫu thử để có được trị số của RNA HCV ở thời điểm ban đầu trước khi điều trị. Vào cuối quá trình điều trị, trị số ALT trong giới hạn bình thường, RNA HCV tiếp tục giảm còn 20000 copies/mL nhưng không hòan toàn sạch virus. Sáu tháng sau điều trị, RNA HCV tăng trở lên 530.000 copies /mL và ALT tăng lên 112U/L. Vào thời điểm bệnh nhân được đưa vào theo dõi đánh giá này, RNA HCV > 1 triệu copies /mL. Bác sĩ điều trị và bệnh nhân thảo luận về khả năng đạt SVR bằng cách tái điều trị với peginterferon+ribavirin. Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cưú tái điều trị và được bắt thăm ngẫu nhiên nhận peginterferon alfa 2b 1.0ug/kg và ribavirin 1000 – 1200 mg/ngày. Vào tuần 12, RNA HCV của bệnh nhân giảm > 2-log, trị số tuyệt đối Một số lớn những trường hợp không đáp ứng với interferon+ribavirin hoặc những trường hợp tái phát có thể có cơ hội sạch virus với liệu pháp peginterferon+ribavirin nhờ hiệu quả cải thiện của pegylated interferon. Đã có một số nghiên cứu về tái điều trị với peginterferon+ribavirin đối với những trường hợp điều trị ban đầu không đáp ứng hoặc tái phát. Những nghiên cứu này có đặc điểm là không đồng nhất trong thiết kế nghiên cứu, đặc biệt ở liều thuốc sử dụng. Những dữ liệu có được từ những nghiên cứu này cho thấy rõ ràng peginterferon+ribavirin có thể làm sạch virus trên một số đáng kể những người trước đó không đáp ứng với điều trị (25-40%), mặc dù là tỷ lệ SVR thấp. Điều này liên quan với tỷ lệ lớn các trường hợp tái phát sau 12 tháng điều trị, một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ được ghi nhận trong các thử nghiệm lâm sàng lớn điều trị cho những bệnh nhân chưa được điều trị trước đó. Những kết quả tốt hơn được ghi nhận trong nhóm tái phát với điều trị kết hợp trước đó. Jacobson và cộng sự thực hiện một nghiên cứu tái điều trị những bệnh nhân hoặc không đáp ứng hoặc tái phát sau điều trị interferon+ribavirin cũng nh ư cho một nhóm nhỏ bệnh nhân không đáp ứng với đơn trị liệu interferon. Bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên hoặc điều trị bằng peginterferon alfa 2b 1.0ug/kg QW với ribavirin 1000 – 1200 mg /ngày hoặc peginterferon alfa 2b 1.5ug/kg QW với ribavirin 800 mg /ngày. Mọi bệnh nhân được điều trị 48 tuần và theo dõi 24 tu ần. Nghiên cứu thực hiện trên 321 bệnh nhân, dữ liệu SVR có được trên 306 bệnh nhân. Kết quả được Jacobson trình bày ở hội nghị hàng năm AASLD Boston lần thứ 53 (1-5 tháng 11 năm 2002) cho biết các bệnh nhân nhiễm genotype 1 (n=198) không đáp ứng với điều trị kết hợp trước đó đã đạt được tỷ lệ đáp ứng cao với liều peginterferon cao hơn. Tuy nhiên vào cuối giai đoạn theo dõi 24 tuần, tỷ lệ bệnh nhân đạt SVR thấp, không có sự khác biệt thống kê giữa nhóm peginterferon alfa 2b 1.0ug/kg và peginterferon alfa 2b 1.5ug/kg (5% so với 9% tương ứng) . Tỷ lệ 9% với peginterferon liều cao tương tự kết quả của các nghiên cứu khác đã làm trước đây. Những người không đáp ứng bị nhiễm genotype không phải 1 (n=17) cũng có tỷ lệ SVR thấp: kết quả chính xác là 25% đối với liệu pháp peginterferon liều thấp và 13% đối với liệu pháp peginterferon liều cao. Các dữ liệu này xác định rằng các genotype 2 và 3 có sự đề kháng thực sự, trong nhóm đánh giá tiêu biểu sự nhạy cảm đối với điều trị. Đối với tất cả các genotypes, trị liệu kết hợp áp dụng cho những người bị tái phát (n=49) đạt tỷ lệ SVR khá hơn. 44% các trường hợp bệnh nhân được cho liều cao peginterferon đã đạt được SVR, so với nhóm bệnh nhân đ ược cho liều thấp peginterferon là 35% đạt được SVR (P=NS). Tỷ lệ đạt SVR của những bệnh nhân không đáp ứng với đơn trị liệu interferon (n=42) là thấp nhất: kết quả chính xác là 24% các trường hợp bệnh nhân được cho liều thấp peginterferon và 14% các trường hợp bệnh nhân được cho liều cao peginterferon (P=NS). Một vài nghiên cứu khác về tái điều trị cũng được trình bày ở h ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chuyên ngành y khoa tài liệu y khoa lý thuyết y học giáo trình y học bài giảng y học bệnh lâm sàng chuẩn đoán bệnhGợi ý tài liệu liên quan:
-
38 trang 147 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 147 0 0 -
Bài giảng Kỹ thuật IUI – cập nhật y học chứng cứ - ThS. BS. Giang Huỳnh Như
21 trang 142 1 0 -
Access for Dialysis: Surgical and Radiologic Procedures - part 3
44 trang 141 0 0 -
Bài giảng Tinh dầu và dược liệu chứa tinh dầu - TS. Nguyễn Viết Kình
93 trang 140 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 117 0 0 -
40 trang 91 0 0
-
Bài giảng Chẩn đoán và điều trị tắc động mạch ngoại biên mạn tính - TS. Đỗ Kim Quế
74 trang 85 0 0 -
Bài giảng Thoát vị hoành bẩm sinh phát hiện qua siêu âm và thái độ xử trí
19 trang 79 0 0 -
40 trang 61 0 0