Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cáchlập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang vănchính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốckháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thựcdân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những ángvăn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn,chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu: Cơ sở lập luận trong Tuyên Ngôn Độc LậpCơ sở lập luận trong Tuyên NgônĐộc Lập Có thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốckháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thựcdân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những ángvăn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn,chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.Dù viết trong hoàn cảnh nào, và bằng thứ tiếng nào,văn chính luận Việt nói chung, văn chính luận Chủtịch Hồ Chí Minh nói riêng, luôn luôn dựa hẳn trên hainguyên lí: nguyên lí nhân đạo chủ nghĩa và triết lí áiquốc chủ nghĩa. Trong cách trình bày, người viếtthiên về sự khẳng định chân lý theo sát với hainguyên lí trên. Sự khẳng định thường được trình bàyhết sức rạch ròi giữa cái thiện và cái ác, cái tốt và cáixấu, cái cao thượng và cái thấp hèn, điều chínhnghĩa và điều phi nghĩa. Những sự khẳng định cótính chất đối lập này được thể hiện một cách nhuầnnhuyễn, sắc sảo trong văn bản “Tuyên ngôn Độclập”.Tìm hiểu cách lập luận trong văn bản “Tuyên ngônĐộc lập”, chúng ta có thể nhận ra: Chủ tịch Hồ ChíMinh đã vận dụng tất cả những luận cứ sắc sảo nhất,đắt nhất cho cách lập luận của mình, được thể hiệntrong từng từ, từng câu, từng đoạn và toàn bộ vănbản.Lập luận thể hiện ở cấp độ toàn văn bảnChúng ta đều biết, bản “Tuyên ngôn Độc lập” đượcChủ tịch Hồ Chí Minh viết “bằng văn xuôi hiện đạitiếng Việt, thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận,một loại văn mang tính chính thức xã hội ở cấp Nhànước - quốc gia, hoặc liên Nhà nước - liên quốcgia,.... để nói rõ trước công chúng (trong và ngoàinước) về chính kiến của mình trước những sự kiệnlịch sử cực kỳ trọng đại”. [Nguyễn Nguyên Trứ - Họctập cách viết của Hồ Chủ Tịch, Nxb Giáo dục 1999,tr159].Đọc toàn văn bản “Tuyên ngôn Độc lập”, chúng tanhận thấy phương pháp lập luận được Bác sử dụngtrước hết, và quan trọng nhất, là lập luận bằngphương thức so sánh, so sánh tương đồng và sosánh tương phản những luận cứ, luận điểm trực tiếpliên quan đến vấn đề muốn nói.Trong bản “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ ChíMinh nhân danh Chính phủ lâm thời của nước ViệtNam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với thếgiới rằng: “Nước Việt có quyền hưởng tự do và độclập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thầnvà lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vữngquyền tự do và độc lập ấy”. Đó là một kết luận quantrọng được rút ra từ những luận cứ (lí lẽ) có tính lịchsử xác thực:Luận cứ 1: Bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mĩ:“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng.Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâmphạm được; trong những quyền ấy, có quyền sống,quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.Luận cứ 2: Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dânquyền của cách mạng Pháp năm 1789: “Người tasinh ra tự do và bình đẳng và quyền lợi và phải luônluôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.Ở đây, xét về mục đích soạn thảo văn bản, bố cục làhình thức nhưng cũng là nội dung; và trong bố cụccủa một loại hình văn bản nào thì sự mở đầu lúc nàocũng quan trọng, cũng là kết quả của những sự cânnhắc thuộc chiến lược ngôn hành. Mở đầu bản“Tuyên ngôn Độc lập”, ngay trong đoạn mở đầu, Chủtịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn ngay hai nội dung quantrọng trong hai bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp làmluận cứ cho kết luận của mình. Có thể nói rằng, Chủtịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp lập luận “gậyông đập lưng ông” vào ngòi bút của mình một cáchsắc sảo và hiệu quả. Trong tranh luận, để bác bỏluận điệu của một đối thủ nào đấy, không gì thú vị vàđích đáng hơn là dùng lí lẽ của chính đối thủ ấy. Sựbác bỏ lí lẽ của bọn xâm lược trước dư luận thế giớicủa Chủ tịch Hồ Chí Minh là trường hợp như thế.Quan hệ giữa đoạn mở đầu với đoạn tiếp theo trongbản “Tuyên ngôn Độc lập” của Bác là quan hệ ngữnghĩa đối lập: đối lập nội dung, đối lập chữ nghĩa, đốilập về thái độ. Tất cả đã được diễn đạt trang trọng,chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn và xúc động. Điều nàyđược thể hiện:Thứ nhất, đi từ một chân lý đã biết, đã được côngnhận, suy ra một chân lý tương tự, có chung logicbên trong, đó là cách lập luận so sánh tương đồngmà Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng khi đem so sánhlời trích trong bản “Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mĩ”,để đi đến kết luận: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là:tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướngvà quyền tự do”. Cái “suy rộng ra” của Bác là cáiđược lấy từ chính cái luận cứ và lí lẽ: “Lời bất hủ ởtrong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nướcMĩ”, nhưng đó lại là “sự bổ sung rất trí tuệ của Bác:với cuộc đời của dân tộc mình và cuộc đời của biết ...