Danh mục

Tài liệu Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu - ĐH Kinh tế Quốc dân

Số trang: 39      Loại file: pdf      Dung lượng: 213.64 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (39 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tài liệu này trình bày các nội dung sau: nguồn gốc của thương mại quốc tế, vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, chức năng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu, các loại hình xuất khẩu, nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu - ĐH Kinh tế Quốc dân Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Phiên bản trực tuyến: http://voer.edu.vn/c/40ac3f24 MỤC LỤC 1. Nguồn gốc của thương mại quốc tế 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia 3. Chức năng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu 4. Các loại hình xuất khẩu 5. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu 6. Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu 7. Ký kết hợp đồng xuất khẩu 8. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu 9. Đánh giá hiệu quả xuất khẩu 10. Các yếu tố đặc trưng của hàng tơ tằm xuất khẩu 11. Đặc điểm của ngành sản xuất tơ tằm xuất khẩu Tham gia đóng góp 1/37 Nguồn gốc của thương mại quốc tế Nguồn gốc của thương mại quốc tế TMQT có từ hàng ngàn năm nay, nó ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế. TMQT trước hết là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các quốc gia. Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với tiến bộ khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi dào, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn. Thương mại bắt nguồn từ sự đa dạng và điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế thì chắc chắn đem lại lợi nhuận lớn hơn. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất ít nhất cũng giải thích được sự hình thành TMQT giữa các nước trong kinh doanh các mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch... Song như chúng ta đã biết phần lớn số lượng thương mại trong các mặt hàng không xuất phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của sản xuất. Một nước có thể sản xuất được mặt hàng này tại sao lại nhập khẩu chính mặt hàng đó từ một nước khác? Làm sao nước ta với xuất phát điểm thấp, chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt hàng của các cường quốc kinh tế lại có thể vẫn duy trì quan hệ thương mại với các nước đó? Để giải thích những câu hỏi trên chúng ta hãy xem xét quy luật lợi thế tương đối (hay lý thuyết về lợi thế so sánh) của nhà kinh tế học David Ricardo (1772- 1823). Quy luật lợi thế tương đối nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất coi đó là chía khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết này khẳng định nếu mỗi quốc gia chuuyên môn hóa sản xuất các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay có hiệu quả sản xuất cao nhất thì thương mại có hiệu quả cho cả hai nước. Nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào TMQT để tạo ra lợi ích. Khi tham gia vào TMQT quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối). Còn nhiều lý do khác nhau khiến TMQT ra đời và ngày càng trở lên quan trọng, đặc biệt trong một thế giới hiện đại. Một trong những lý do đó có thể là TMQT tối cần thiết cho việc chuyên môn hoá để có hiệu quả kinh tế cao trong các ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ được thực hiện trong hàng hoá các nước sản xuất. Sự khác nhau về sở thích và mức cầu cũng là một nghuyên nhân khác để có TMQT. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối ở hai nơi giống hệt nhau, TMQT vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau về sở thích. 2/37 Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, con đường xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo kiểu cô lập với bên ngoài, tự cấp, tự túc hay thay thế nhập khẩu đã hoàn toàn không có sức thuyết phục. Thực tế cho thấy con đường dẫn đến phát triển nhanh, bền vững không phải qua chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng để sản xuất ra những sản phẩm sơ chế, mà thông qua việc mở rộng và phát triển các ngành sản xuất chế biến sâu, có giá trị thặng dư cao, hướng về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả hơn để khai thác tốt nhất lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật, công nghệ, thị trường cho sự phát triển. Để thấy rõ điều này chúng ta hãy xem xét những vai trò sau đây của TMQT nói chung và của xuất khẩu nói riêng. 3/37 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có được đầy đủ mọi thứ hàng hoá. Buôn bán quốc tế có ý nghĩa sống còn, mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Xuất khẩu là một hoạt động TMQT có vai trò quan trọng thể hiện trên các mặt sau: Xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế, phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước Trong thế giới hiện đại không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa của mình lại phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng các thành tựu kinh tế khoa học kỹ thuật của loài người để phát triển. Nền kinh tế “mở cửa”, trong đó xuất khẩu đóng vai trò then chốt sẽ mở hướng phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi thế tiềm năng sẵn có trong nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất. Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng là: tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những yếu tố thiếu hụt là vốn, kỹ thuật, thị trường và kĩ năng quản lý. Xuấ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: