Danh mục

Tài liệu Hình ảnh Học Trong Chẩn đoán đột quị

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 109.82 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nhiệm vụ của bác sĩ hình ảnh học thần kinh trong đột quị là cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng các thông tin về hình thái của tổn thương, các thông tin về chức năng của não (nếu có thể), cũng như các thông tin về tình trạng các mạch máu não. Bác sĩ hình ảnh học còn phải cho biết rằng hiện tại bệnh nhân có các bệnh lý mạch máu đi kèm, tổn thương hiện tại là thiếu máu hay xuất huyết. Với sự tiến bộ trong điều trị ly giải huyết khối giúp hồi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu Hình ảnh Học Trong Chẩn đoán đột quị Hình ảnh Học Trong Chẩn đoán đột Quị Nhiệm vụ của bác sĩ hình ảnh học thần kinh trong đột quị là cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng các thông tin về hình thái của tổn thương, các thông tin về chức năng của não (nếu có thể), cũng như các thông tin về tình trạng các mạch máu não. Bác sĩ hình ảnh học còn phải cho biết rằng hiện tại bệnh nhân có các bệnh lý mạch máu đi kèm, tổn thương hiện tại là thiếu máu hay xuất huyết. Với sự tiến bộ trong điều trị ly giải huyết khối giúp hồi phục chức năng thần kinh trong giai đoạn đầu của thiếu máu não, đã làm thay đổi vai trò của hình ảnh. Công việc chẩn đoán hình ảnh học trong đột quị không đơn giản chỉ dừng lại ở việc phân biệt thiếu máu não và xuất huyết não, mà giờ đây chúng ta phải chẩn đoán xác định thiếu máu não trong những giờ đầu nhằm phục vụ cho việc điều trị đạt hiệu quả cao nhất. Cũng như nhanh chóng nhận ra vùng nhu mô não có “nguy cơ” (“at risk”), vùng tổn thương không có khả năng phục hồi. Do vậy các phương tiện chẩn đoán hình ảnh học giờ đây có mặt trong quá trình cấp cứu bệnh nhận đột quị, ngăn ngừa các tổn thương não không hồi phục, giảm thiểu số bệnh nhân tổn th ương gây mất các chức năng. Các nhà hình ảnh học thần kinh phải sử dụng một cách tốt nhất các phương tiện chẩn đoán và điều trị một cách hiệu quả nhất, bao gồm các phương tiện xâm lấn và không xâm lấn. Angiography trở thành phương tiện được dùng rộng rãi nhất ngày nay, dùng để đánh giá trực tiếp hệ thống mạch máu não. Một số phương tiện ít xâm lấn hơn đó là CT, siêu âm và chụp cộng hưởng từ, bao gồm cả qui ước (hình ảnh học hình thái cơ bản và angiography) và chức năng (spectroscopy, diffusion, perfusion). SPECT và PET cùng cho phép khảo sát tình trạng dòng máu, cũng như hoạt động chuyển hóa. Tuy nhiên các phương tiện này không sử dụng thường xuyên, và chúng phải cần các chất đánh dấu hình ảnh. Trong cấp cứu, phương tiện chẩn đoán sọ não được lựa chọn đầu tiên là CT vì lý do không xâm lấn, trên thực tế phương tiện này có mặt ở nhiều nơi nên việc sử dụng cũng thuận lợi, thời gian thực hiện và chi phí tương đối thấp. CT phân biệt xuất huyết não và thiếu máu não là một yếu có vai trò quan trọng trong tiên lượng và điều trị. Nếu CT cho kết quả âm tính với đột quị hay có sự không ph ù hợp với bệnh cảnh lâm sàng, MRI là phương tiện chẩn đoán hình ảnh được đề nghị tiếp theo vì nó cho những thông tin tốt hơn nhưng lại không gây xâm lấn. Đột quị xuất huyết (Haemorrhagic Stroke) CT là phương tiện chẩn đoán hữu ích trong phân tích xuất huyết não. Trong xuất huyết nội sọ hình ảnh CT sẽ cho ta thấy nhanh chóng tổn thương do máu có mật độ cao hơn nhu mô não. Tuy nhiên cần biết rằng MRI cho những thông tin đầy đủ hơn trong một tình trạng xuất huyết. Trong xuất huyết não cấp có xuất hiện oxyhaemoglobin, đây là một chất có đặc tính không thuận từ (no paramagnetic) nên khá giống với nước, hầu như không thể phân biệt được với vùng nhu mô não thiếu máu. Trong xuất huyết não bán cấp, oxyhaemoglobin trong máu xuất huyết đã chuyển thành deoxyhaemoglobin, sau đó vào trong tế bào, chuyển hóa thành metahaemoglobin ngoại bào. Đây là những chất có đặc tính thuận từ và/hay có đặc tính nhạy từ tính và do vậy chúng có thể có số lần nghĩ (able to influence relaxation times) và thay đổi tín hiệu trên MR theo những cách có thể dự đoán trước được. Ngày nay với sự phát triển của MRI về độ mạnh của từ trường, thời gian thực hiện cũng như cung cấp những hình ảnh liên tục đã giúp tăng độ nhạy của MRI đối với các chất nhạy từ tính khác nhau (ví dụ như echo planar imaging: EPI), từ đó cho chúng ta những hình ảnh rõ ràng hơn nhiều trong cả những trường hợp vùng xuất huyết nhỏ. Cũng bởi khả năng của MRI trong việc phân biệt giữa thiếu máu và xuất huyết, trong tương lai MRI có thể sẽ thay thế CT trong thực hành lâm sàng đột quị. Tuy nhiên khả năng thay thế này không nằm ở tương lai gần vì những hạn chế của MRI về mức độ phổ biến cũng nh ư chi phí thực hiện. CT vẫn là phương tiện chẩn đoán lựa chọn hàng đầu. Chụp mạch máu cấp cứu hiện giới hạn trong những trường hợp xuất huyết dưới nhện cần tìm kiếm bệnh lý gây đột quị nh ư phình mạch hay dị dạng mạch máu. Thiếu máu não (Ischaemic Stroke) CT cho thấy rằng nó không có khả năng chúng minh được sự xuất hiện những thay đổi của thiếu máu não không xuất huyết trong những giờ đầu có triệu chứng đột quị trên lâm sàng. Giai đoạn sau đó, với người có kinh nghiệm, ta có thể nhận thấy những dấu hiệu gián tiếp của tổn th ương thiếu máu mô liên quan với lower attenuation brain tissue, là hậu quả của phù độc tế bào, tăng đậm độ các động mạch lớn (động mạch não giữa, động mạch nền) do thuyên tắc, huyết khối mạch máu. Mặc dù MRI với xung T2 đặc biệt nhạy với những thay đổi của n ước trong các mô, rất tốt để phát hiện hiện tượng phù, nhưng nó vẫn thường cho kết quả âm tính trong giai đoạn đầu của tổn thương đột quị tối cấp (1 – 6 giờ đầu). nguyên nhân là do ...

Tài liệu được xem nhiều: