Tài liệu học tập Pháp luật đại cương - Trường Cao đẳng Duyên Hải
Số trang: 66
Loại file: docx
Dung lượng: 203.96 KB
Lượt xem: 23
Lượt tải: 0
Xem trước 9 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tài liệu học tập Pháp luật đại cương cung cấp cho người học những kiến thức như: đại cương về nhà nước; đại cương về pháp luật; hệ thống các ngành luật Việt Nam; pháp luật về phòng chống tham nhũng. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu học tập Pháp luật đại cương - Trường Cao đẳng Duyên Hải TRƯỜNG CAO ĐẲNG DUYÊN HẢI TÀI LIỆU HỌC TẬP PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG I: ĐẠI CƯƠNG VỀ NHÀ NƯỚC 1.1 NGUỒN GỐC CỦA NHÀ NƯỚC Muốn hiểu rõ nguồn gốc và bản chất của pháp luật cũng như sự phát triển của chúng , tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và phát triển của nhà nước. Nhà nước và pháp luật là một phạm trù chỉ xuất hiện khi xã hội loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định, chúng luôn vận động, phát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan về sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa. 1.1.1 Sự ra đời của nhà nước a) Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc, bộ lạc. Chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên trong lịch sử, đó là một xã hội không có giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật. Ở xã hội cộng sản nguyên thủy do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp dẫn đến năng xuất lao động kém, con người không thể sống riêng biệt mà phải dựa vào nhau cùng chung sống, cùng lao động, cùng thụ hưởng. Trong xã hội mọi người đều bình đẳng, không có tài sản riêng, không có đặc quyền , đặc lợi nào.Cơ sở tế bào xã hội không phải gia đình mà là thị tộc tổ chức xã hội đầu tiên trong lịch sử được hình thành trên cơ sở huyết thống. Đã tồn tại quyền lực và hệ thống quản lí công tác của việc của việc thị tộc, nhưng quyền lực ở đây chưa mang tính giai cấp và hệ thống quản lý còn rất đơn giản. Để tổ chức và quản lí thị tộc , đã xuất hiện hình thức Hội đồng thị tộc, đây là tổ chức có quyền lực cao nhất của thị tộc thể hiện ý chí chung của tất cả mọi thành viên trong việc quyết định các vấn đề có liên quan. Hội đồng thị bầu ra những người đứng đầu thị như tù trưởng, thủ lĩnh quân sư,..để thực hiện quyền lực và quản lý các công việc chung của thị tộc.Những người này có quyền lực rất lớn nhưng quyền lực đó không dựa vào bộ máy cưỡng chế mà dựa vào sự uy tín được sự ủng hộ của các thành viên trong thị tộc. Họ cũng có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu uy tín của họ không còn nữa. Tổ chức thị tộc phát triển cùng với các điều kiện tác động( hôn nhân ngoại tộc) dẫn đến sự xuất hiện các bào tộc và bộ lạc. Bào tộc là một liên minh bao gồm nhiều thị tộc hợp lại, còn bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc. Tổ chức quyền lực trong bào tộc cũng như trong bộ lạc, đều dựa trên nguyên tắc tương tự như ở tổ chức thị tộc nhưng ở đây thể hiện sự tập trung cao hơn. Tóm lại, trong xẫ hội cộng sản nguyên thủy đã có quyền lực nhưng đó là quyền lực xuất phát từ xã hội và phục vụ lợi ích chung của cộng đồng. Các quy tắc ứng xử sự của con người là các tập quán và các tín điều tôn giáo, đó là các chuẩn mực tuyệt đối mà mọi người tuân theo một cách tự nguyện. b) Sự tan rã của các tổ chức thị tộc và sự xuất hiện của nhà nước. Lịch sử đã trải qua 3 lần phân công lao động xã hội lớn mà mỗi lần xã hội lại có bước tiến mới từng bước làm tăng nhanh quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyển thủy. * Lần phân công lao động xã hội lần thứ nhất Đó là con người thuần dưỡng được động vật tạo ra nghề chăn nuôi gia súc phát triển mạnh mẽ, xuất hiện càng nhiều gia đình chuyên làm nghề chăn nuôi, dần dần chăn nuôi đã trở thành một ngành kinh tế độc lập tách khỏi ngành trồng trọt. Sau lần phân công xã hội đầu tiên, xã hội đã có những biến đổi sâu sắc: chăn nuôi, trồng trọt phát triển tạo ra sản phẩm lao động dư thừa và phát sinh khả năng chiếm đoạt sản phẩm dư thừa đó. Xã hội nảy sinh nhu cầu về sức lao động, cho nên các tù binh trong chiến tranh thay vì bị giết đã được giữ lại bị bóc lột sức lao động làm nô lệ. Như vậy, chế dộ tư hữu xuất hiện, xã hội phân chia thành kẻ giàu người nghèo, thiết lập nên các gia đình cá thể với địa vị độc tôn cảu người chồng trở thành những yếu tố đe dọa sự tồn tại của tổ chức thị tộc. * Lần phân công lao động xã hội thứ hai Việc con người tìm ra kim loaị cải tiến các công cụ sản xuất và chế biến những sản phẩm của trồng trọt, chăn nuôi tạo ra một ngành nghề mới tách khỏi nông nghiệp, đó là thủ công nghiệp. Sau lần phân công xã hội này thì nô lệ trở thành một bộ phận phận chủ yếu cấu thành của xã hội. Xã hội bị phân hóa sâu sắc, sự phân biệt giũa kẻ giàu và người nghèo, giữa chủ nô và nô lệ ngày càng rõ nét, mẫu thuấn giai cấp hình thành và ngày càng gia tăng. * Lần phân công lao động xã hội thứ ba Khi các ngành sản xuất đã tách biệt thì xuất hiện nhu cầu trao đổi hàng hóa và dẫn đến sự ra đời của thương nghiệp. Sự phân công này nảy sinh ra một nhóm người không tham gia vào sản xuất nữa, đó gọi là thương nhân.Thương nghiệp ra đời kéo theo sự xuất hiện của đồng tiền, chế đọ cầm cố và cho vay nặng lãi,…dẫn đến sự bần cùng hóa của đại đa số và tập trung của cải trong tay thiểu số người. Như vậy qua ba lần phân công lao động xã hội đã làm xã hội thị tộc từ một xã hội thuần nhất thành một xã hội có phân chia giai cấp. Khi sự ra đời chủ nô nô lê, xuất hiện của đồng tiền, sự phân biệt kẻ giàu người nghèo tạo ra xã hội thị tộc mâu thuẫn không thể điều hòa được. Đứng trước hoàn cảnh mới một xã hội do toàn bộ những điều kiện kinh tế quyết định sự tồn tại của nó đã phân chia thành các giai cấp đối lập, đấu tranh gay gắt với nhau, tổ chức thị tộc trở thành bất lực không còn phù hợp với xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức trấn áp được các xung đột giai cấp. Tổ chức đó chính là nhà nước và sự xuất hiện của nhà nước là yêu cầu khách quan. Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự. So với thị tộc thì nhà nước có hai đặc trưng cơ bản là phân chia dan cư theo lãnh thổ và thiết lập quyền lực công cộng. Quyền lực công cộng của nhà nước khác với quyền lực xã hội trong chế độ cộng sản nguyên thủy: quyền lực đó không thuộc về tát cả mọi thành viên trong xã hội mà chỉ thuộc về giai cấp thống trị phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị. Để thực hiện quyền lực cần có một lớp người đặc biệt và bộ máy cưỡ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu học tập Pháp luật đại cương - Trường Cao đẳng Duyên Hải TRƯỜNG CAO ĐẲNG DUYÊN HẢI TÀI LIỆU HỌC TẬP PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG I: ĐẠI CƯƠNG VỀ NHÀ NƯỚC 1.1 NGUỒN GỐC CỦA NHÀ NƯỚC Muốn hiểu rõ nguồn gốc và bản chất của pháp luật cũng như sự phát triển của chúng , tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và phát triển của nhà nước. Nhà nước và pháp luật là một phạm trù chỉ xuất hiện khi xã hội loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định, chúng luôn vận động, phát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan về sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa. 1.1.1 Sự ra đời của nhà nước a) Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc, bộ lạc. Chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên trong lịch sử, đó là một xã hội không có giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật. Ở xã hội cộng sản nguyên thủy do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp dẫn đến năng xuất lao động kém, con người không thể sống riêng biệt mà phải dựa vào nhau cùng chung sống, cùng lao động, cùng thụ hưởng. Trong xã hội mọi người đều bình đẳng, không có tài sản riêng, không có đặc quyền , đặc lợi nào.Cơ sở tế bào xã hội không phải gia đình mà là thị tộc tổ chức xã hội đầu tiên trong lịch sử được hình thành trên cơ sở huyết thống. Đã tồn tại quyền lực và hệ thống quản lí công tác của việc của việc thị tộc, nhưng quyền lực ở đây chưa mang tính giai cấp và hệ thống quản lý còn rất đơn giản. Để tổ chức và quản lí thị tộc , đã xuất hiện hình thức Hội đồng thị tộc, đây là tổ chức có quyền lực cao nhất của thị tộc thể hiện ý chí chung của tất cả mọi thành viên trong việc quyết định các vấn đề có liên quan. Hội đồng thị bầu ra những người đứng đầu thị như tù trưởng, thủ lĩnh quân sư,..để thực hiện quyền lực và quản lý các công việc chung của thị tộc.Những người này có quyền lực rất lớn nhưng quyền lực đó không dựa vào bộ máy cưỡng chế mà dựa vào sự uy tín được sự ủng hộ của các thành viên trong thị tộc. Họ cũng có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu uy tín của họ không còn nữa. Tổ chức thị tộc phát triển cùng với các điều kiện tác động( hôn nhân ngoại tộc) dẫn đến sự xuất hiện các bào tộc và bộ lạc. Bào tộc là một liên minh bao gồm nhiều thị tộc hợp lại, còn bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc. Tổ chức quyền lực trong bào tộc cũng như trong bộ lạc, đều dựa trên nguyên tắc tương tự như ở tổ chức thị tộc nhưng ở đây thể hiện sự tập trung cao hơn. Tóm lại, trong xẫ hội cộng sản nguyên thủy đã có quyền lực nhưng đó là quyền lực xuất phát từ xã hội và phục vụ lợi ích chung của cộng đồng. Các quy tắc ứng xử sự của con người là các tập quán và các tín điều tôn giáo, đó là các chuẩn mực tuyệt đối mà mọi người tuân theo một cách tự nguyện. b) Sự tan rã của các tổ chức thị tộc và sự xuất hiện của nhà nước. Lịch sử đã trải qua 3 lần phân công lao động xã hội lớn mà mỗi lần xã hội lại có bước tiến mới từng bước làm tăng nhanh quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyển thủy. * Lần phân công lao động xã hội lần thứ nhất Đó là con người thuần dưỡng được động vật tạo ra nghề chăn nuôi gia súc phát triển mạnh mẽ, xuất hiện càng nhiều gia đình chuyên làm nghề chăn nuôi, dần dần chăn nuôi đã trở thành một ngành kinh tế độc lập tách khỏi ngành trồng trọt. Sau lần phân công xã hội đầu tiên, xã hội đã có những biến đổi sâu sắc: chăn nuôi, trồng trọt phát triển tạo ra sản phẩm lao động dư thừa và phát sinh khả năng chiếm đoạt sản phẩm dư thừa đó. Xã hội nảy sinh nhu cầu về sức lao động, cho nên các tù binh trong chiến tranh thay vì bị giết đã được giữ lại bị bóc lột sức lao động làm nô lệ. Như vậy, chế dộ tư hữu xuất hiện, xã hội phân chia thành kẻ giàu người nghèo, thiết lập nên các gia đình cá thể với địa vị độc tôn cảu người chồng trở thành những yếu tố đe dọa sự tồn tại của tổ chức thị tộc. * Lần phân công lao động xã hội thứ hai Việc con người tìm ra kim loaị cải tiến các công cụ sản xuất và chế biến những sản phẩm của trồng trọt, chăn nuôi tạo ra một ngành nghề mới tách khỏi nông nghiệp, đó là thủ công nghiệp. Sau lần phân công xã hội này thì nô lệ trở thành một bộ phận phận chủ yếu cấu thành của xã hội. Xã hội bị phân hóa sâu sắc, sự phân biệt giũa kẻ giàu và người nghèo, giữa chủ nô và nô lệ ngày càng rõ nét, mẫu thuấn giai cấp hình thành và ngày càng gia tăng. * Lần phân công lao động xã hội thứ ba Khi các ngành sản xuất đã tách biệt thì xuất hiện nhu cầu trao đổi hàng hóa và dẫn đến sự ra đời của thương nghiệp. Sự phân công này nảy sinh ra một nhóm người không tham gia vào sản xuất nữa, đó gọi là thương nhân.Thương nghiệp ra đời kéo theo sự xuất hiện của đồng tiền, chế đọ cầm cố và cho vay nặng lãi,…dẫn đến sự bần cùng hóa của đại đa số và tập trung của cải trong tay thiểu số người. Như vậy qua ba lần phân công lao động xã hội đã làm xã hội thị tộc từ một xã hội thuần nhất thành một xã hội có phân chia giai cấp. Khi sự ra đời chủ nô nô lê, xuất hiện của đồng tiền, sự phân biệt kẻ giàu người nghèo tạo ra xã hội thị tộc mâu thuẫn không thể điều hòa được. Đứng trước hoàn cảnh mới một xã hội do toàn bộ những điều kiện kinh tế quyết định sự tồn tại của nó đã phân chia thành các giai cấp đối lập, đấu tranh gay gắt với nhau, tổ chức thị tộc trở thành bất lực không còn phù hợp với xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức trấn áp được các xung đột giai cấp. Tổ chức đó chính là nhà nước và sự xuất hiện của nhà nước là yêu cầu khách quan. Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự. So với thị tộc thì nhà nước có hai đặc trưng cơ bản là phân chia dan cư theo lãnh thổ và thiết lập quyền lực công cộng. Quyền lực công cộng của nhà nước khác với quyền lực xã hội trong chế độ cộng sản nguyên thủy: quyền lực đó không thuộc về tát cả mọi thành viên trong xã hội mà chỉ thuộc về giai cấp thống trị phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị. Để thực hiện quyền lực cần có một lớp người đặc biệt và bộ máy cưỡ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tài liệu học tập Pháp luật đại cương Pháp luật đại cương Bản chất giai cấp nhà nước Hình thức nhà nước Quy phạm pháp luật Phòng chống tham nhũngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Pháp luật đại cương: Phần 1 - ThS. Đỗ Văn Giai, ThS. Trần Lương Đức
103 trang 1002 4 0 -
Chống 'chạy chức, chạy quyền' - Một giải pháp chống tham nhũng trong công tác cán bộ
11 trang 286 0 0 -
Bài giảng Pháp luật đại cương - Chương 4: Một số nội dung cơ bản của Luật hành chính
11 trang 282 0 0 -
Giáo trình Pháp luật đại cương (Tái bản lần thứ 5) : Phần 2 - Nguyễn Hợp Toàn
214 trang 229 0 0 -
Những điều cần biết về công tác phòng chống tham nhũng: Phần 2
66 trang 225 0 0 -
Tiểu luận: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
30 trang 220 0 0 -
Bài giảng Pháp luật đại cương - Chương 3: Một số nội dung cơ bản của Luật dân sự
24 trang 202 1 0 -
Bộ đề thi trắc nghiệm môn Pháp luật đại cương có đáp án
24 trang 198 2 0 -
5 trang 188 0 0
-
Kiến thức về phòng, chống tham nhũng: Phần 2
204 trang 184 0 0