Thuốc hạ sốt thuộc loại bán không yêu cầu phải có đơn (OTC), có thể tự mua dùng nhưng không phải bao giờ cũng dùng đúng, có không ít trường hợp bị tai biến cần có quan niệm đúng.Sốt là phản xạ tự vệ của cơ thể trước nhiều nguyên nhân khác nhau (nhiễm khuẩn, nhiễm virus, bị tổn thương). Là một phản xạ tự vệ nên tốt, không đáng sợ. Chỉ khi sốt cao, gây co giật mới nguy hiểm. Dùng thuốc hạ sốt là dùng thuốc ức chế trung tâm điều nhiệt, nhằm làm giảm sốt, không cho...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu Không đơn giản khi dùng thuốc hạ sốt cho trẻ Không đơn giản khi dùng thuốc hạ sốt cho trẻ Thuốc hạ sốt thuộc loại bán không yêu cầu phải có đơn (OTC), có thểtự mua dùng nhưng không phải bao giờ cũng dùng đúng, có không ít trườnghợp bị tai biến cần có quan niệm đúng. Sốt là phản xạ tự vệ của cơ thể trước nhiều nguyên nhân khác nhau (nhiễmkhuẩn, nhiễm virus, bị tổn thương). Là một phản xạ tự vệ nên tốt, không đáng sợ.Chỉ khi sốt cao, gây co giật mới nguy hiểm. Dùng thuốc hạ sốt là dùng thuốc ứcchế trung tâm điều nhiệt, nhằm làm giảm sốt, không cho sốt tiến triển đến mứccao. Trong trường hợp sốt không cao lắm, không nhất thiết phải dùng thuốc, chỉchườm mát cũng có hiệu quả. Thuốc hạ sốt chỉ chữa triệu chứng, làm giảm sốt,chứ không thể làm mất hẳn sốt, muốn mất hẳn sốt phải dùng các thuốc chữanguyên nhân gây ra sốt (như khi bi sốt do viêm họng nhiễm khuẩn thì phải dùngkháng sinh). Sai lầm trong chọn thuốc Sai sót nguy hiểm nhất là dùng aspirin không đúng độ tuổi, không đúng lúc: Aspirin là yếu tố thúc đẩy gây hội chứng Reye Hội chứng Reye (phát hiện năm 1963) là một bệnh lý não hiếm gặp, chủyếu ở trẻ em, với đặc điểm là phù não và suy gan nhiễm mỡ. Nhiều nghiên cứuthấy: trẻ nhiễm virus cúm (đặc biệt là virus cúm influenza typ B), nhiễm thủy đậu,nhiễm virus gây viêm đường hô hấp mà dùng aspirin thì thường dễ bị hội chứngReye; trong khi những trẻ cũng bị nhiễm các virus trên nhưng không dùng aspirinthì hiếm khi bị hội chứng Reye. Do đó mà xem aspirin như một yếu tố thúc đẩygây ra hội chứng Reye. Trong trường hợp nhiễm virus, trẻ dưới 16 tuổi (có tài liệukhuyến nghị dưới 18 tuổi) không được dùng aspirin. Aspirin làm nặng thêm các bệnh xuất huyết Aspirin ngăn ngừa sự kết tập tiểu cầu (một yếu tố đông máu, làm chảymáu). Trong sốt xuất huyết, nếu cho trẻ dùng aspirin thì aspirin sẽ có tác dụng này,dẫn đến trẻ bị xuất huyết nặng hơn, chảy máu không cầm được, nguy hiểm đếntính mạng. Trong sốt xuất huyết thì trẻ em cũng như người lớn không được dùngaspirin. Aspirin còn có các tác hại khác Aspirin có thể gây ra xuất huyết đường tiêu hóa: trẻ nhỏ độ acid sinh lý ởdạ dày thấp, chỉ đạt được độ acid dạ dày như người lớn khi 20 - 30 tháng. Cho trẻdưới tuổi này dùng aspirin thì sẽ làm thay đổi độ acid sinh lý vốn thấp, gây nóngrát dạ dày. Nếu dùng lâu dài sẽ gây viêm loét xuất huyết đường tiêu hóa, nặng hơnnữa có thể gây thủng dạ dày. Aspirin sẽ gây buồn nôn, ù tai, điếc, lú lẫn: dùng aspirin lâu dài, trẻ có thểbị các triệu chứng này. Aspirin có thể gây dị ứng: với một số trẻ, aspirin có thể gây dị ứng. Nếukhông chữa trị kịp thời dị ứng có thể chuyển sang nặng. Những tác hại này cũng xảy ra cho người lớn. Đo đặc tính sinh lý, sức chịuđựng thấp, nên tần suất xảy ra ở trẻ nhiều hơn, nặng hơn. Do thế, trẻ 12 tuổi thìkhông dùng aspirin. Trường hợp đặc biệt dùng aspirin thì phải thế nào? Một số trường hợp đặc biệt bị các bệnh: viêm khớp tuổi thiếu niên,Kawasaki, viêm mạch máu, cơ tim giãn nở, thì thầy thuốc có thể chỉ định dùngaspirin với sự cân nhắc cẩn thận về chỉ định, liều lượng và theo dõi sát sao. Ngườinhà cần khai báo với thầy thuốc tất cả cơ địa và bệnh tật của trẻ trước đó, tuân thủcác hướng dẫn. Khi đang dùng các thuốc chữa các bệnh trên mà phát hiện trẻ cócác bệnh khác, đặc biệt là các biểu hiện nhiễm siêu vi thì kịp thời đưa trẻ khám lạiđể xử lý (có thể cho ngừng tạm thời thuốc). Sai lầm do dùng quá liều, kéo dài. Những trường hợp dùng sai liều hay gặp là: - Khi không hạ sốt thì cứ tăng liều, khi tái sốt lại thì tiếp tục dùng. Thuốc hạsốt chỉ dùng trong 3 - 4 ngày, thậm chí chỉ 1 ngày cũng đã có hiệu quả. Nếu khônghạ, không cắt được sốt, thì phải tìm nguyên nhân hoặc xác định lại nguyên nhândùng hay thay đổi thuốc chữa nguyên nhân, chứ dùng theo cách tăng liều hay kéodài thuốc hạ nhiệt như trên là chưa đúng. - Một hoạt chất thuốc hạ nhiệt có hàng trăm biệt dược đơn, biệt dược kép(phối hợp với thuốc khác). Do vô ý hoặc do nôn nóng nên dùng trùng lặp hoạt chấtgây quá liều. Ví dụ: trẻ đang dùng biệt dược paramol (bột paracetamol) thấy chưađỡ sốt, nôn nóng nghe mách bảo có biệt dược nhét hậu môn algotropyl tốt, thìdùng thêm. Biệt dược algotropyl chứa paracetamol và phenobarbital. Trong thờigian chuyển tiếp, paracetamol từ thuốc uống hãy còn trong máu, thì paracetamoltừ viên nhét hậu môn dùng thêm cũng đi thẳng vào máu, làm cho nồng độparacetamol máu tăng cao, gây quá liều. Trong các loại thuốc hạ nhiệt thì paracetamol bình thường khá lành tính,dùng cho trẻ em kể cả trẻ dưới 3 tháng tuổi. Sở dĩ như vậy là do khi vào cơ thể,paracetamol được chất glutathion ở gan chuyển hóa thành chất không độc. Khidùng quá liều hay dùng liều cao kéo dài, chất glutathion sẽ bị cạn kiệt, không cònđủ làm n ...