![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
TÀI LIỆU MIỄN DỊCH GHÉP
Số trang: 27
Loại file: pdf
Dung lượng: 174.72 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Ghép là một thủ thuật chuyển các tế bào, mô hoặc các cơ quan từ một vị trí này sang một vị trí khác. Vào cuối thế kỷ IXX đầu thế kỷ XX người ta đã nghiên cứu các kỹ thuật ngoại khoa để tiến hành ghép. Vào những năm đầu thế kỷ XX một nhà ngoại khoa người Áo đã thông báo rằng ông ta có thể mổ cắt rời một thận của một con vật sau đó ghép lại vào chính con vật đó và quả thận này vẫn duy trì được chức năng. Khi những quả...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TÀI LIỆU MIỄN DỊCH GHÉP MIỄN DỊCH GHÉPGhép là một thủ thuật chuyển các tế bào, mô hoặc các cơ quan từ một vị trí nàysang một vị trí khác. Vào cuối thế kỷ IXX đầu thế kỷ XX người ta đã nghiên cứucác kỹ thuật ngoại khoa để tiến hành ghép. Vào những năm đầu thế kỷ XX mộtnhà ngoại khoa người Áo đã thông báo rằng ông ta có thể mổ cắt rời một thận củamột con vật sau đó ghép lại vào chính con vật đó và quả thận này vẫn duy trì đượcchức năng. Khi những quả thận được cắt ra như vậy rồi ghép vào cơ thể động vậtkhác thì chúng bị giảm chức năng một cách nhanh chóng. Vào những năm 1920-1930 nhiều tác giả đã tiến hành ghép thực nghiệm giữa những động vật với nhaunhưng tất cả đều bị thất bại. Khi tiến hành giải phẫu các cơ quan ghép người tathấy các bạch cầu của cơ thể túc chủ thâm nhiễm rất nhiều vào cơ quan hoặc môghép.Vào những năm 1940 Medawar P.B. đã tiến hành một số quan sát giúp ông ta tinrằng sự thải bỏ mô ghép là kết quả của một đáp ứng miễn dịch. Trong khi điều trịcho những bệnh nhân bị bỏng trong chiến tranh thế giới lần thứ II Medawar nhậnthấy nếu lấy da từ một vị trí này để ghép sang một vị trí khác của c ùng một cơ thểthì luôn luôn thành công, trong khi đó nếu lấy da từ một cơ thể cùng huyết thốngđể ghép cho một cơ thể khác thì mảnh da bị loại bỏ. Trong một trường hợp tác giảlấy da của người anh để ghép cho người em thì mảnh ghép bị loại bỏ; nếu cũng lấyda từ người anh đó để ghép lại lần thứ hai thì sự thải bỏ xẩy ra nhanh hơn nhiều.Nhận xét này đã dẫn Medawar tới một thực nghiệm trên động vật như sau: lấy tếbào của cơ thể cho để mẫn cảm sơ bộ cho cơ thể nhận sau đó tiến hành ghép da từcơ thể cho sang cơ thể nhận thì mảnh ghép bị thải bỏ. Năm 1945 ông đã công bốcông trình trong đó cho rằng thải bỏ mô ghép xẩy ra là do một đáp ứng miễn dịchchống lại mô, cơ quan ghép. Trong những năm sau nhận xét này đã được chứngminh là đúng. Dù cho nhà ngoại khoa có lành nghề đến đâu đi nữa thì những môghép cũng phải chịu một cuộc tấn công của đáp ứng miễn dịch. Chính hệ thống đ ãtham gia vào sự nhận biết và phá hủy các tế bào của bản thân cơ thể nhận đã bịthay đổi sẽ hoạt động nhận biết và phá hủy các tế bào lạ của mô ghép. Phân mônmiễn dịch ghép giúp chúng ta hiểu được cơ sở miễn dịch của sự thải bỏ mô ghép.Chính sự hiểu biết này đã mang lại khả năng làm giảm hoạt động của hệ thốngmiễn dịch giúp cơ thể chấp nhận mô ghép. Nhiều tác nhân ức chế miễn dịch đ ãđược phát hiện và ứng dụng trong ghép cơ quan. Chỉ 10 năm sau khi Medawarcông bố công trình của mình người ta đã thực hiện thành công ca ghép thận ngườiđầu tiên trên thế giới. Ngày nay ghép mô và cơ quan đ ã trở thành một phươngpháp điều trị phổ biến ở nhiều nơi. Ghép thận, tim, phổi, gan, tủy x ương, giác mạcđã được thực hiện ngày một nhiều với tỷ lệ thành công ngày một cao hơn.Cơ sở miễn dịch học của sự thải bỏ mô ghépCường độ đáp ứng miễn dịch chống lại mô ghép thay đổi tùy theo kiểu ghép. Cónhững kiểu ghép chính sau đây: Ghép tự thân (autograft): tức là chuyển dời mô hoặc cơ quan từ một vị trí-này sang một vị trí khác trên cùng một cơ thể. Kỹ thuật này thường được tiến hànhvới các bệnh nhân bỏng bằng cách lấy da từ một chỗ lành ghép vào chỗ bị bỏng. Ghép cùng gene (isograft): là việc trao đổi mô ghép giữa hai cơ thể giống-nhau hoàn toàn về di truyền. Ðối với những dòng chuột thuần chủng thì ghép cùnggene xẩy ra khi lấy mô hoặc tạng của một con chuột này ghép sang con chuột kháccùng dòng. Ở người, ghép cùng gene được thực hiện chỉ khi cơ thể cho và cơ thểnhận là những anh (chị) em sinh đôi cùng trứng. Ghép khác gene cùng loài (allograft): là việc trao đổi ghép giữa các thành-viên khác nhau về di truyền nhưng cùng trong một loài. Ở chuột nhắt ghép khácgene cùng loài khi chuyển mô của một con chuột thuộc dòng này ghép sang chomột con chuột thuộc dòng khác. Ở người phần lớn các trường hợp ghép mô, cơquan được thực hiện đều là ghép khác gene cùng loài, trừ khi người cho và ngườinhận là hai anh em sinh đôi cùng trứng giống nhau hoàn toàn về di truyền. Ghép khác loài (xenograft): đó là việc trao đổi ghép giữa các cơ thể khác-loài chẳng hạn như lấy tim của loài linh trưởng hoặc lợn ghép cho người.Cả trường hợp ghép tự thân và ghép đồng gene luôn luôn thành công là do sự đồngnhất về di truyền giữa cơ thể cho và cơ thể nhận (Hình x-1a). Do mô ghép luônluôn khác biệt về di truyền với cơ thể túc chủ bởi vậy nó luôn được hệ thống miễndịch nhận biết như một vật lạ và thải bỏ mô ghép thực chất là một phản ứng miễndịch chống lại các kháng nguyên ghép. Rõ ràng là ghép khác loài có mức độ khácnhau về di truyền lớn nhất và vì thế phản ứng thải bỏ mô ghép cũng khốc liệt nhất.Hình 18-1: Sơ đồ quá trình liền và thải bỏ mảnh ghép. (a) Mảnh ghép tự thân đ ượcchấp nhận và liền trong vòng 12–14 ngày. (b) Thải ghép lần đầu của mảnh ghépkhác gene đồng loài bắt đầu 7–10 ngày sau gh ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TÀI LIỆU MIỄN DỊCH GHÉP MIỄN DỊCH GHÉPGhép là một thủ thuật chuyển các tế bào, mô hoặc các cơ quan từ một vị trí nàysang một vị trí khác. Vào cuối thế kỷ IXX đầu thế kỷ XX người ta đã nghiên cứucác kỹ thuật ngoại khoa để tiến hành ghép. Vào những năm đầu thế kỷ XX mộtnhà ngoại khoa người Áo đã thông báo rằng ông ta có thể mổ cắt rời một thận củamột con vật sau đó ghép lại vào chính con vật đó và quả thận này vẫn duy trì đượcchức năng. Khi những quả thận được cắt ra như vậy rồi ghép vào cơ thể động vậtkhác thì chúng bị giảm chức năng một cách nhanh chóng. Vào những năm 1920-1930 nhiều tác giả đã tiến hành ghép thực nghiệm giữa những động vật với nhaunhưng tất cả đều bị thất bại. Khi tiến hành giải phẫu các cơ quan ghép người tathấy các bạch cầu của cơ thể túc chủ thâm nhiễm rất nhiều vào cơ quan hoặc môghép.Vào những năm 1940 Medawar P.B. đã tiến hành một số quan sát giúp ông ta tinrằng sự thải bỏ mô ghép là kết quả của một đáp ứng miễn dịch. Trong khi điều trịcho những bệnh nhân bị bỏng trong chiến tranh thế giới lần thứ II Medawar nhậnthấy nếu lấy da từ một vị trí này để ghép sang một vị trí khác của c ùng một cơ thểthì luôn luôn thành công, trong khi đó nếu lấy da từ một cơ thể cùng huyết thốngđể ghép cho một cơ thể khác thì mảnh da bị loại bỏ. Trong một trường hợp tác giảlấy da của người anh để ghép cho người em thì mảnh ghép bị loại bỏ; nếu cũng lấyda từ người anh đó để ghép lại lần thứ hai thì sự thải bỏ xẩy ra nhanh hơn nhiều.Nhận xét này đã dẫn Medawar tới một thực nghiệm trên động vật như sau: lấy tếbào của cơ thể cho để mẫn cảm sơ bộ cho cơ thể nhận sau đó tiến hành ghép da từcơ thể cho sang cơ thể nhận thì mảnh ghép bị thải bỏ. Năm 1945 ông đã công bốcông trình trong đó cho rằng thải bỏ mô ghép xẩy ra là do một đáp ứng miễn dịchchống lại mô, cơ quan ghép. Trong những năm sau nhận xét này đã được chứngminh là đúng. Dù cho nhà ngoại khoa có lành nghề đến đâu đi nữa thì những môghép cũng phải chịu một cuộc tấn công của đáp ứng miễn dịch. Chính hệ thống đ ãtham gia vào sự nhận biết và phá hủy các tế bào của bản thân cơ thể nhận đã bịthay đổi sẽ hoạt động nhận biết và phá hủy các tế bào lạ của mô ghép. Phân mônmiễn dịch ghép giúp chúng ta hiểu được cơ sở miễn dịch của sự thải bỏ mô ghép.Chính sự hiểu biết này đã mang lại khả năng làm giảm hoạt động của hệ thốngmiễn dịch giúp cơ thể chấp nhận mô ghép. Nhiều tác nhân ức chế miễn dịch đ ãđược phát hiện và ứng dụng trong ghép cơ quan. Chỉ 10 năm sau khi Medawarcông bố công trình của mình người ta đã thực hiện thành công ca ghép thận ngườiđầu tiên trên thế giới. Ngày nay ghép mô và cơ quan đ ã trở thành một phươngpháp điều trị phổ biến ở nhiều nơi. Ghép thận, tim, phổi, gan, tủy x ương, giác mạcđã được thực hiện ngày một nhiều với tỷ lệ thành công ngày một cao hơn.Cơ sở miễn dịch học của sự thải bỏ mô ghépCường độ đáp ứng miễn dịch chống lại mô ghép thay đổi tùy theo kiểu ghép. Cónhững kiểu ghép chính sau đây: Ghép tự thân (autograft): tức là chuyển dời mô hoặc cơ quan từ một vị trí-này sang một vị trí khác trên cùng một cơ thể. Kỹ thuật này thường được tiến hànhvới các bệnh nhân bỏng bằng cách lấy da từ một chỗ lành ghép vào chỗ bị bỏng. Ghép cùng gene (isograft): là việc trao đổi mô ghép giữa hai cơ thể giống-nhau hoàn toàn về di truyền. Ðối với những dòng chuột thuần chủng thì ghép cùnggene xẩy ra khi lấy mô hoặc tạng của một con chuột này ghép sang con chuột kháccùng dòng. Ở người, ghép cùng gene được thực hiện chỉ khi cơ thể cho và cơ thểnhận là những anh (chị) em sinh đôi cùng trứng. Ghép khác gene cùng loài (allograft): là việc trao đổi ghép giữa các thành-viên khác nhau về di truyền nhưng cùng trong một loài. Ở chuột nhắt ghép khácgene cùng loài khi chuyển mô của một con chuột thuộc dòng này ghép sang chomột con chuột thuộc dòng khác. Ở người phần lớn các trường hợp ghép mô, cơquan được thực hiện đều là ghép khác gene cùng loài, trừ khi người cho và ngườinhận là hai anh em sinh đôi cùng trứng giống nhau hoàn toàn về di truyền. Ghép khác loài (xenograft): đó là việc trao đổi ghép giữa các cơ thể khác-loài chẳng hạn như lấy tim của loài linh trưởng hoặc lợn ghép cho người.Cả trường hợp ghép tự thân và ghép đồng gene luôn luôn thành công là do sự đồngnhất về di truyền giữa cơ thể cho và cơ thể nhận (Hình x-1a). Do mô ghép luônluôn khác biệt về di truyền với cơ thể túc chủ bởi vậy nó luôn được hệ thống miễndịch nhận biết như một vật lạ và thải bỏ mô ghép thực chất là một phản ứng miễndịch chống lại các kháng nguyên ghép. Rõ ràng là ghép khác loài có mức độ khácnhau về di truyền lớn nhất và vì thế phản ứng thải bỏ mô ghép cũng khốc liệt nhất.Hình 18-1: Sơ đồ quá trình liền và thải bỏ mảnh ghép. (a) Mảnh ghép tự thân đ ượcchấp nhận và liền trong vòng 12–14 ngày. (b) Thải ghép lần đầu của mảnh ghépkhác gene đồng loài bắt đầu 7–10 ngày sau gh ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chuyên ngành y khoa tài liệu y khoa lý thuyết y học giáo trình y học bài giảng y học bệnh lâm sàng chuẩn đoán bệnhTài liệu liên quan:
-
38 trang 170 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 169 0 0 -
Access for Dialysis: Surgical and Radiologic Procedures - part 3
44 trang 163 0 0 -
Bài giảng Kỹ thuật IUI – cập nhật y học chứng cứ - ThS. BS. Giang Huỳnh Như
21 trang 157 1 0 -
Bài giảng Tinh dầu và dược liệu chứa tinh dầu - TS. Nguyễn Viết Kình
93 trang 153 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 127 0 0 -
Bài giảng Thoát vị hoành bẩm sinh phát hiện qua siêu âm và thái độ xử trí
19 trang 111 0 0 -
40 trang 106 0 0
-
Bài giảng Chẩn đoán và điều trị tắc động mạch ngoại biên mạn tính - TS. Đỗ Kim Quế
74 trang 95 0 0 -
40 trang 70 0 0