Thông tin tài liệu:
Tầm soát hay phòng ngừa?Gần đây có một số vắc-xin được tiếp thị vào thị trường Việt Nam, với nhiều cách quảng cáo khác nhau. Ung thư cổ tử cung (UTCTC) là một dạng ung thư tương đối phổ biến và nguy hiểm ở nước ta.Gần đây, có ý kiến cho rằng biện pháp phòng ngừa Ung thư cổ tử cung lý tưởng nhất là tầm soát thay vì tiêm vắc-xin. Lại có ý kiến vắc-xin chỉ phòng ngừa hai loại vi khuẩn, nên ảnh hưởng không cao. Tuy nhiên, cả hai lý giải này đều không thuyết phục, nếu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tầm soát hay phòng ngừa? Tầm soát hay phòng ngừa?Gần đây có một số vắc-xin được tiếp thị vào thị trường Việt Nam, với nhiều cáchquảng cáo khác nhau. Ung thư cổ tử cung (UTCTC) là một dạng ung thư tương đốiphổ biến và nguy hiểm ở nước ta.Gần đây, có ý kiến cho rằng biện pháp phòng ngừa Ung thư cổ tử cung lý tưởng nhất làtầm soát thay vì tiêm vắc-xin. Lại có ý kiến vắc-xin chỉ phòng ngừa hai loại vi khuẩn, nênảnh hưởng không cao. Tuy nhiên, cả hai lý giải này đều không thuyết phục, nếu khôngmuốn nói là sai. Ngoài ra, ý kiến này còn thể hiện một sự nhầm lẫn về mục tiêu của haibiện pháp đó.Tầm soát là nhằm mục đích phát hiện ung thư ở những phụ nữ chưa bị ung thư hay chưacó triệu chứng ung thư; còn tiêm vắc-xin có mục đích chính là phòng ngừa bệnh Ung thưcổ tử cung trước khi bệnh phát sinh. Hai phương án này hỗ trợ lẫn nhau, chứ không phải“cạnh tranh” nhau để biết phương án nào tốt và phương án nào không tốt.Ung thư cổ tử cung là một vấn đề y tế công cộng ở nước ta, bởi vì tần số bệnh khá cao vàhệ quả nghiêm trọng. Theo thống kê của Viện Ung thư quốc gia, hằng năm có hàng chụcngàn ca Ung thư cổ tử cung mới phát hiện, đứng vào hàng thứ hai trong số các loại ungthư. Tỉ lệ phát sinh Ung thư cổ tử cung ở phụ nữ người Việt thuộc vào hàng cao nhất thếgiới. Phụ nữ ở miền Nam có nguy cơ mắc bệnh Ung thư cổ tử cung cao gấp 4 lần phụ nữở miền Bắc hay phụ nữ người da trắng. Nhưng có lẽ quan trọng hơn là tuổi thọ của nhữngphụ nữ mắc bệnh Ung thư cổ tử cung giảm đáng kể so với tuổi thọ trung bình của dân số.Tầm soát ung thư.Tình trạng Ung thư cổ tử cung ở nước ta đặt ra những vấn đề liên quan đến chiến lượcphòng chống ở quy mô cộng đồng. Có hai chiến lược chính: Đó là tầm soát và tiêm vắc-xin. Hiện nay, hai phương pháp tầm soát Ung thư cổ tử cung phổ biến nhất là pap smearvà colposcopy. Cả hai phương pháp xét nghiệm đều mang tính xâm phạm khá cao và nếubiết được chi tiết, không phải phụ nữ nào cũng muốn tự “dâng mình” để kinh qua haiphương pháp xét nghiệm này.Tầm soát Ung thư cổ tử cung bằng pap smear và colposcopy có mục tiêu chính là pháthiện ung thư ở những người chưa có triệu chứng hay chưa mắc bệnh, với hy vọng pháthiện bệnh sớm, chữa trị sớm và sẽ cứu mạng sống cho người bệnh. Ý tưởng này chỉ đúngkhi nào hai điều kiện sau đây đáp ứng: Thứ nhất, phương pháp xét nghiệm có thể pháthiện ung thư; và thứ hai, chữa trị sớm có hiệu quả tốt hơn chữa trị trễ.Nhưng trong thực tế lại không đúng với hai giả định đó. Khoảng 5% đến 14% kết quả xétnghiệm pap smear là ASCUS (Atypical Squamous Cells of Unknown Significance, tứccác tế bào bất bình thường nhưng không quan trọng) và SIL (Squamous IntraepithelialLesion). Hầu hết những trường hợp với Atypical Squamous Cells of UnknownSignificance hay Squamous Intraepithelial Lesion sẽ không phát triển thành ung thư. Tuynhiên, bác sĩ có xu hướng muốn chữa trị những trường hợp này và do đó điều trị quánhiều hơn cần thiết và gây tác hại cho cộng đồng.Về mặt kỹ thuật, cả hai phương pháp xét nghiệm đều không hoàn hảo. Một số phụ nữ cókết quả xét nghiệm dương tính nhưng họ không mắc ung thư (còn gọi là dương tính giả);ngược lại, một số phụ nữ có kết quả âm tính nhưng họ thật sự mắc ung thư (âm tính giả).Tỉ lệ dương tính giả của phương pháp pap smear dao động từ 5% (ở phụ nữ trên 60 tuổi)đến 16% (ở phụ nữ dưới 50 tuổi).Vắc-xin ngăn ngừa bao nhiêu phần trăm?Vài năm gần đây, qua nhiều nghiên cứu khoa học, người ta nhận ra rằng một trong nhữngnguyên nhân quan trọng của Ung thư cổ tử cung là virus HPV (Human Papilloma Virus).Tưởng cần nhắc lại rằng công trình nghiên cứu về Human Papilloma Virus và Ung thư cổtử cung vừa được trao giải thưởng Nobel năm 2008. Dựa vào mối liên hệ giữa miễn dịchvà ung thư, các nhà khoa học phát triển vắc-xin để phòng ngừa ung thư ngay từ độ tuổi vịthành niên.Nhưng vắc-xin cũng không phải là biện pháp có thể ngăn ngừa 100% trường hợp Ungthư cổ tử cung. Theo kết quả của một nghiên cứu lâm sàng công bố trên tập sang y họcdanh tiếng New England Journal of Medicine năm 2005, vắc-xin Gardasil có hiệu quảngăn ngừa ~100% trường hợp tiền Ung thư cổ tử cung. Nghiên cứu này chia 12.167 phụnữ tuổi từ 16 đến 26 thành 2 nhóm: Nhóm tiêm Gardasil (5.301 người) và nhóm giả dược(5.258 người). Sau 12 tháng theo dõi, không có ai trong nhóm được tiêm vắc-xin phátsinh tiền Ung thư cổ tử cung, nhưng có 21 người trong nhóm giả dược phát sinh tiền Ungthư cổ tử cung.Do chưa có số liệu khoa học nên chúng ta chưa biết vắc-xin có thể ngừa bao nhiêu phầntrăm Ung thư cổ tử cung. Tuy nhiên, dựa vào giả định về tiến trình của Ung thư cổ tửcung, các nhà khoa học mô phỏng rằng vắc-xin có hiệu quả ngăn ngừa một phần lớn sựphát sinh Ung thư cổ tử cung.Ung thư cổ tử cung do nhiều (hàng trăm) virus gây ra. Vắc-xin vừa đề cập có hiệu quảchống hai chủng virus 16 và 18, còn các chủng virus khác thì chưa có hiệu quả rõ ràng.Tuy nhiên, vì hai loại virus này chiếm khoảng ...