TÂM THẦN PHÂN LIỆT – PHẦN 1
Số trang: 22
Loại file: pdf
Dung lượng: 201.56 KB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Cho đến ngày nay chưa có một định nghĩa dứt khoát nào để khỏi gây ra bàn cãi về bệnh này. Vì vậy, điều bắt buộc phải thừa nhận đây là một khái niệm hơn là một bệnh chính thức và khái niệm này vẫn còn được tiếp tục bàn. Sự quan sát lâm sàng cho thấy tính không thuần nhất về mọi phương diện: triệu chứng, tuổi, di truyền, cách tiến triển, tiên lượng, đáp ứng điều trị ở một bệnh nhân được xếp vào bệnh này. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TÂM THẦN PHÂN LIỆT – PHẦN 1 TÂM THẦN PHÂN LIỆT – PHẦN 1 I. ĐẠI CƯƠNG 1. Định nghĩa: Cho đến ngày nay chưa có một định nghĩa dứt khoát nào để khỏi gây ra bàncãi về bệnh này. Vì vậy, điều bắt buộc phải thừa nhận đây là một khái niệm hơn làmột bệnh chính thức và khái niệm này vẫn còn được tiếp tục bàn. Sự quan sát lâmsàng cho thấy tính không thuần nhất về mọi phương diện: triệu chứng, tuổi, ditruyền, cách tiến triển, tiên lượng, đáp ứng điều trị ở một bệnh nhân được xếp vàobệnh này. Đây là một bệnh loạn thần nặng tiến triển từ từ, có khuynh hướng mãntính, căn nguyên hiện nay chưa rõ ràng, làm cho người bệnh dần dần tách khỏicuộc sống bên ngoài, thu dần vào thế giới bên trong, làm cho tình cảm trơø nênkhô lạnh dần, khả năng làm việc, học tập ngày một giảm sút, có những hành vi ýnghĩ dị kỳ khó hiểu. Phân liệt được thể hiện với các đặc tính sau: - Triệu chứng học: + Hoang tưởng không có hệ thống + Các rối loạn về nhân cách: phân ly (thiếu hòa hợp), tự kỷ. - Tiến triển: Tiến triển kéo đài và có nguy cơ tiến đến sự giảm sút toàn bộnhân cách. - Bệnh xảy ra ở lứa tuổi từ 15 - 35. 2. Khái niệm: Theo định nghĩa trên người ta nhận thấy đây là một bệnh mạn tính và là mộtbệnh đáng sợ nhất trong các bệnh tâm thần”. Các triệu chứng rối loạn nặng nềnhân cách mà chính người bệnh bị cắt xén dần trong thế giới những người đangsống bằng cách làm mất hẳn ở người bệnh cái khả năng cơ bản để có thể giao tiếpvới những người xung quanh. Quan niệm hiện tại về tâm thần phân liệt rất mới, bệnh này dần dần dượctách ra khỏi tất cả các bệnh tâm thần trong thế kỷ trước. Sự hiện hữu trước nhữngngười rối loạn có thể dược xem như thuộc tâm thần phân liệt còn đang bàn cãi bởinhiều tác giả. Từ 1857, một tác giả Pháp Morel đã nêu ra với danh từ sa sút sớm để chỉcác trường hợp những thanh niên có hư hại trí tuệ tiến triển nhanh. Nhưng chính ởĐức mới thật sự có quan niệm hiện đại về tâm thần phân liệt. Như Kahlbaum năm1863 đã viết về bệnh mà học trò của ông là Hecker đã gọi nó vào năm 1871 làbệnh thanh xuân. Cũng như sa sút sớm của Morel, bệnh thanh xuân đến sau tuổidậy thì và biểu hiện bằng một sự ngừng phát triển trí tuệ dẫn đến sa sút. Năm1874, Kahlbaum luôn luôn mô tả căng trương lực, trong đó các rối loạn vânđộng là hàng đầu nhưng được phối hợp thêm với các rối loạn khí sắc và hoangtưởng. Kraepeline, trong tác phẩm chủ yếu của mình ông cho rằng tâm thần họchiện đại là sự thừa kế trực tiếp sẽ hợp nhất các mô tả khác nhau này và trong lầnxuất bản thứ 6 tác phẩm của ông năm 1899. Đã gộp lại dưới danh từ sa sútsớm bệnh thanh xuân. Căng trương lực sa sút paranoide và các thể ảo giác củaparanoide. Sa sút sớm của Kraepeline thừa nhận 2 tiêu chuẩn chính: triệu chứng họcđược đánh dấu bởi sự tan rã các chức năng trí tuê, các rối loạn cảm xúc, hành vingôn ngữ, tư duy và tiến triển nặng dần đến sự sa sút trầm trọng sau cùng. Eugen Bleuler (1857 - 1939), năm 1911 đề nghị thay danh từ sa sút sớmbằng danh từ tâm thần phân liệt một từ bắt nguồn dựa theo danh từ của Hy Lạpschlzein tách ra hoặc chia ra) và phên tinh thần, linh hồn) Bleuler muốn đặtmột dấu cộng thêm cho sự quan trọng của sự chia cắt các chức năng tâm thần cũngnhư trên sự tiến triển sa sút. Ông cũng nhấn mạnh đến điều mà tâm thần phân liệtkhông tạo nên bởi một bản chất hoàn toàn dứt khoát mà nó là một tổng hợp các rốiloạn tâm thần. Tôi đặt tên sự sa sút sớm là tâm thần phân liệt bởi vì, như tôi muốnchứng minh sự chia cắt các chức năng tâm thần nhiều loại là một trong những tínhchất rất quan trọng của nó. Để cho thuận lợi tôi dùng danh từ ở số ít mặc dù mộtnhóm gần như rất nhiều bệnh”. Ở Pháp, một lập luận tương tự cũng được thực hiện tiếp theo Chasline, ông làngười đặt sự thiếu hòa hợp vào nguồn gốc các biểu hiện lâm sâng của tâm thầnphân liệt, chính sự thiếu hòa hợp này Bleuler trước kia mô tả là sự phân ly.Chaslin làm rõ ràng sự thiếu hòa hợp này qua những cử chỉ thể hiện của bệnhnhân nhất là về phương diện hành vi. Tiếp theo sau, quan niệm tâm thần phân liệt phải tiến triển ít nhiều phân hóatheo trường phái. Ở Đức, bỏ qua những loại mô tả bệnh, nhưng Kraepelme lai thừanhận như paraphrénie, nó phải được quy vào bao gồm gần tất cả các hoang tưởngmãn tính trong đó có những hoang tưởng có hệ thống trong tâm thần phân liệt. Các trường phái nói tiếng Anh nhất là Hoa Kỳ đã cho ra những công trìnhhiện đại nhất liên quan đến lâm sàng của tâm thần phân liệt kể từ những năm 50.Tính độc đáo của các cố gắng này rất thích hợp với triết lý đã chủ đạo biên soạn raDSM III và DSM IIIR, DSM IV, ICD-10 với một định nghĩa hoàn toàn triệuchứng học của loạn thần tâm thần phân liệt. Quan niệm về tâm thần phân liệt ở đâyđã được mở rộng bằng tất cả những nghiên cứu về tiến triển, về nguyên nhân hoặctâm thần bệnh lý, tất cả những điều này tiếp tục theo sát những công trình của cáctrường phái châu Âu. Hiện nay các hướng nghiên cứu rất nhiều. Nhưng gần như tất cả những điềuchắc chắn nổi lên từ những nghiên cứu dịch tễ học. Tâm thần phân liệt là một bệnh thường xảy ra. Đa số các công trình đềunói lên tỷ lệ bệnh mới phát hiện và tỷ lệ toàn bộ nằm trong số những bệnh nhân đãđược điều trị. Số mới chiếm tối thiểu 20%. Những nghiên cứu khác nhau về tỷ lệtoàn bộ đã thực hiện giữa năm 1960 và 1985 cho những tỷ lệ thay đổi (giữa 0,6 và8,3%). Để hạn chế nhiều khía cạnh đặc biệt của những nghiên cứu này, NIMH đãphát động tại 5 thành phố ở Hoa Kỳ chương trình ECA (EpidemologicCatchement Area), tỷ lệ toàn bộ trong 6 tháng của lâm thần phân liệt và rối loạndạng phân liệt nằm giữa 0,6 và 1,2%; tỷ lệ toàn bộ đối với đời sống là giữa 1 và1,9%. Ở Pháp tỷ lệ cũng khoảng 0,5% dân số. Ở Việt nam các con số thống kê chothấy tỷ lệ bị bệnh trong nhân dân là 0,63% (Hà Tây), 0,77% (Vĩnh Phúc), 0,65%(Đà Nẵng), 0,20% (T ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TÂM THẦN PHÂN LIỆT – PHẦN 1 TÂM THẦN PHÂN LIỆT – PHẦN 1 I. ĐẠI CƯƠNG 1. Định nghĩa: Cho đến ngày nay chưa có một định nghĩa dứt khoát nào để khỏi gây ra bàncãi về bệnh này. Vì vậy, điều bắt buộc phải thừa nhận đây là một khái niệm hơn làmột bệnh chính thức và khái niệm này vẫn còn được tiếp tục bàn. Sự quan sát lâmsàng cho thấy tính không thuần nhất về mọi phương diện: triệu chứng, tuổi, ditruyền, cách tiến triển, tiên lượng, đáp ứng điều trị ở một bệnh nhân được xếp vàobệnh này. Đây là một bệnh loạn thần nặng tiến triển từ từ, có khuynh hướng mãntính, căn nguyên hiện nay chưa rõ ràng, làm cho người bệnh dần dần tách khỏicuộc sống bên ngoài, thu dần vào thế giới bên trong, làm cho tình cảm trơø nênkhô lạnh dần, khả năng làm việc, học tập ngày một giảm sút, có những hành vi ýnghĩ dị kỳ khó hiểu. Phân liệt được thể hiện với các đặc tính sau: - Triệu chứng học: + Hoang tưởng không có hệ thống + Các rối loạn về nhân cách: phân ly (thiếu hòa hợp), tự kỷ. - Tiến triển: Tiến triển kéo đài và có nguy cơ tiến đến sự giảm sút toàn bộnhân cách. - Bệnh xảy ra ở lứa tuổi từ 15 - 35. 2. Khái niệm: Theo định nghĩa trên người ta nhận thấy đây là một bệnh mạn tính và là mộtbệnh đáng sợ nhất trong các bệnh tâm thần”. Các triệu chứng rối loạn nặng nềnhân cách mà chính người bệnh bị cắt xén dần trong thế giới những người đangsống bằng cách làm mất hẳn ở người bệnh cái khả năng cơ bản để có thể giao tiếpvới những người xung quanh. Quan niệm hiện tại về tâm thần phân liệt rất mới, bệnh này dần dần dượctách ra khỏi tất cả các bệnh tâm thần trong thế kỷ trước. Sự hiện hữu trước nhữngngười rối loạn có thể dược xem như thuộc tâm thần phân liệt còn đang bàn cãi bởinhiều tác giả. Từ 1857, một tác giả Pháp Morel đã nêu ra với danh từ sa sút sớm để chỉcác trường hợp những thanh niên có hư hại trí tuệ tiến triển nhanh. Nhưng chính ởĐức mới thật sự có quan niệm hiện đại về tâm thần phân liệt. Như Kahlbaum năm1863 đã viết về bệnh mà học trò của ông là Hecker đã gọi nó vào năm 1871 làbệnh thanh xuân. Cũng như sa sút sớm của Morel, bệnh thanh xuân đến sau tuổidậy thì và biểu hiện bằng một sự ngừng phát triển trí tuệ dẫn đến sa sút. Năm1874, Kahlbaum luôn luôn mô tả căng trương lực, trong đó các rối loạn vânđộng là hàng đầu nhưng được phối hợp thêm với các rối loạn khí sắc và hoangtưởng. Kraepeline, trong tác phẩm chủ yếu của mình ông cho rằng tâm thần họchiện đại là sự thừa kế trực tiếp sẽ hợp nhất các mô tả khác nhau này và trong lầnxuất bản thứ 6 tác phẩm của ông năm 1899. Đã gộp lại dưới danh từ sa sútsớm bệnh thanh xuân. Căng trương lực sa sút paranoide và các thể ảo giác củaparanoide. Sa sút sớm của Kraepeline thừa nhận 2 tiêu chuẩn chính: triệu chứng họcđược đánh dấu bởi sự tan rã các chức năng trí tuê, các rối loạn cảm xúc, hành vingôn ngữ, tư duy và tiến triển nặng dần đến sự sa sút trầm trọng sau cùng. Eugen Bleuler (1857 - 1939), năm 1911 đề nghị thay danh từ sa sút sớmbằng danh từ tâm thần phân liệt một từ bắt nguồn dựa theo danh từ của Hy Lạpschlzein tách ra hoặc chia ra) và phên tinh thần, linh hồn) Bleuler muốn đặtmột dấu cộng thêm cho sự quan trọng của sự chia cắt các chức năng tâm thần cũngnhư trên sự tiến triển sa sút. Ông cũng nhấn mạnh đến điều mà tâm thần phân liệtkhông tạo nên bởi một bản chất hoàn toàn dứt khoát mà nó là một tổng hợp các rốiloạn tâm thần. Tôi đặt tên sự sa sút sớm là tâm thần phân liệt bởi vì, như tôi muốnchứng minh sự chia cắt các chức năng tâm thần nhiều loại là một trong những tínhchất rất quan trọng của nó. Để cho thuận lợi tôi dùng danh từ ở số ít mặc dù mộtnhóm gần như rất nhiều bệnh”. Ở Pháp, một lập luận tương tự cũng được thực hiện tiếp theo Chasline, ông làngười đặt sự thiếu hòa hợp vào nguồn gốc các biểu hiện lâm sâng của tâm thầnphân liệt, chính sự thiếu hòa hợp này Bleuler trước kia mô tả là sự phân ly.Chaslin làm rõ ràng sự thiếu hòa hợp này qua những cử chỉ thể hiện của bệnhnhân nhất là về phương diện hành vi. Tiếp theo sau, quan niệm tâm thần phân liệt phải tiến triển ít nhiều phân hóatheo trường phái. Ở Đức, bỏ qua những loại mô tả bệnh, nhưng Kraepelme lai thừanhận như paraphrénie, nó phải được quy vào bao gồm gần tất cả các hoang tưởngmãn tính trong đó có những hoang tưởng có hệ thống trong tâm thần phân liệt. Các trường phái nói tiếng Anh nhất là Hoa Kỳ đã cho ra những công trìnhhiện đại nhất liên quan đến lâm sàng của tâm thần phân liệt kể từ những năm 50.Tính độc đáo của các cố gắng này rất thích hợp với triết lý đã chủ đạo biên soạn raDSM III và DSM IIIR, DSM IV, ICD-10 với một định nghĩa hoàn toàn triệuchứng học của loạn thần tâm thần phân liệt. Quan niệm về tâm thần phân liệt ở đâyđã được mở rộng bằng tất cả những nghiên cứu về tiến triển, về nguyên nhân hoặctâm thần bệnh lý, tất cả những điều này tiếp tục theo sát những công trình của cáctrường phái châu Âu. Hiện nay các hướng nghiên cứu rất nhiều. Nhưng gần như tất cả những điềuchắc chắn nổi lên từ những nghiên cứu dịch tễ học. Tâm thần phân liệt là một bệnh thường xảy ra. Đa số các công trình đềunói lên tỷ lệ bệnh mới phát hiện và tỷ lệ toàn bộ nằm trong số những bệnh nhân đãđược điều trị. Số mới chiếm tối thiểu 20%. Những nghiên cứu khác nhau về tỷ lệtoàn bộ đã thực hiện giữa năm 1960 và 1985 cho những tỷ lệ thay đổi (giữa 0,6 và8,3%). Để hạn chế nhiều khía cạnh đặc biệt của những nghiên cứu này, NIMH đãphát động tại 5 thành phố ở Hoa Kỳ chương trình ECA (EpidemologicCatchement Area), tỷ lệ toàn bộ trong 6 tháng của lâm thần phân liệt và rối loạndạng phân liệt nằm giữa 0,6 và 1,2%; tỷ lệ toàn bộ đối với đời sống là giữa 1 và1,9%. Ở Pháp tỷ lệ cũng khoảng 0,5% dân số. Ở Việt nam các con số thống kê chothấy tỷ lệ bị bệnh trong nhân dân là 0,63% (Hà Tây), 0,77% (Vĩnh Phúc), 0,65%(Đà Nẵng), 0,20% (T ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chuyên ngành y khoa tài liệu y khoa lý thuyết y học giáo trình y học bài giảng y học bệnh lâm sàng chuẩn đoán bệnhGợi ý tài liệu liên quan:
-
38 trang 153 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 149 0 0 -
Access for Dialysis: Surgical and Radiologic Procedures - part 3
44 trang 146 0 0 -
Bài giảng Tinh dầu và dược liệu chứa tinh dầu - TS. Nguyễn Viết Kình
93 trang 146 0 0 -
Bài giảng Kỹ thuật IUI – cập nhật y học chứng cứ - ThS. BS. Giang Huỳnh Như
21 trang 143 1 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 117 0 0 -
40 trang 94 0 0
-
Bài giảng Chẩn đoán và điều trị tắc động mạch ngoại biên mạn tính - TS. Đỗ Kim Quế
74 trang 88 0 0 -
Bài giảng Thoát vị hoành bẩm sinh phát hiện qua siêu âm và thái độ xử trí
19 trang 86 0 0 -
40 trang 63 0 0