Trong nghệ thuật, đặc biệt là trong hội hoạ, có hai khâu hoạt động tưởng như xa lạ với nhau, thậm chí khác nhau trên nhiều khía cạnh, đó là khâu sáng tác và khâu thưởng thức. Sáng tác là lãnh vực hoạt động của các hoạ sĩ, chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp, những người vẽ tranh với mục đích sáng tạo ra một tác phẩm nghệ thuật. Còn thưởng thức là lãnh vực của các nhà nghiên cứu, phê bình nghệ thuật, và quần chúng yêu thích nghệ thuật, nói chung. Chức năng của nó là cảm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tản mạn về vai trò của cái gu
Tản mạn về vai trò của cái gu *
Văn Ngọc
Trong nghệ thuật, đặc biệt là trong hội hoạ, có hai khâu hoạt động
tưởng như xa lạ với nhau, thậm chí khác nhau trên nhiều khía cạnh, đó
là khâu sáng tác và khâu thưởng thức.
Sáng tác là lãnh vực hoạt động của các hoạ sĩ, chuyên nghiệp hay
không chuyên nghiệp, những người vẽ tranh với mục đích sáng tạo ra
một tác phẩm nghệ thuật.
Còn thưởng thức là lãnh vực của các nhà nghiên cứu, phê bình nghệ
thuật, và quần chúng yêu thích nghệ thuật, nói chung. Chức năng của
nó là cảm thụ, là thẩm định tác phẩm nghệ thuật.
Khâu thưởng thức trong nghệ thuật, thoạt nhìn tưởng như chỉ có tính
chất thụ động , bởi vì vai trò của người thưởng thức chỉ là cảm thụ,
phán xét tác phẩm của người khác, mặc dầu muốn làm việc đó cũng
phải có khá nhiều hiểu biết về nghệ thuật, lại còn phải nhạy cảm với
cái hay, cái đẹp, nắm bắt được một cách tinh tế những ý tưởng của tác
giả.
Ngược lại, khâu sáng tác, tuy cũng có phần tự phán xét, tự kiểm tra,
song công việc chính vẫn luôn luôn là phải vận dụng trí tưởng tượng để
tìm ra cái đẹp, cái mới. Ngoài ra, người sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật
còn cần có những hiểu biết cụ thể về mặt kỹ thuật thực hiện, và nhất là
cần có tay nghề.
Song, nếu nhìn một cách tổng quát toàn bộ hoạt động nghệ thuật, thì ta
thấy hai khâu này luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau, đôi khi còn hỗ
trợ cho nhau.
Trong nghệ thuật, sự chủ quan của ta cộng với sự chủ quan của người
khác đôi khi dẫn đến một sự đồng thuận về một số giá trị, mà các nhà
triết học, đặc biệt là Kant, coi như là những giá trị phổ biến, mặc dầu
chưa phải là những giá trị khách quan phổ biến như trong khoa học.
Sự đồng thuận trong nghệ thuật thực ra cũng không khác gì sự đồng
thuận ở ngoài đời : người ta thường phải thoả hiệp với nhau trên những
quy ước để sống chung, và để cùng chấp nhận một số giá trị phổ biến
để làm chuẩn mực.
Suy cho cùng, sự nhất quán giữa hoạt động sáng tạo và hoạt động
thưởng thức chỉ là một điều lô gích, vì sáng tạo ra cái đẹp, hay thưởng
thức cái đẹp, chung quy cũng chỉ nhằm cùng một mục đích, xuất phát
từ cùng một nhu cầu trí tuệ của con người : nhu cầu thẩm mỹ.
[ Ở đây, chúng ta sẽ không bàn đến những khía cạnh « thực dụng » của
nghệ thuật, mà chỉ bàn về khía cạnh thẩm mỹ. Bởi vì bàn đến những
vấn đề như : giá trị hàng hoá của tác phẩm, khía cạnh đầu cơ nghệ
thuật, sự lèo lái cái gu của quần chúng vì mục đích quyền lực, hay lợi
nhuận, thì khó có thể nói đến những giá trị thẩm mỹ đích thực được. ]
Giao thoa giữa sáng tác và thưởng thức nghệ thuật
Một trong những biểu hiện nổi bật ở nơi một hoạ sĩ khiến cho chúng ta
nhận biết được mối quan hệ mật thiêt giữa hai khâu sáng tạo và thưởng
thức, là : người hoạ sĩ, trước khi sáng tạo ra những tác phẩm của mình,
không thể nào không biết thưởng thức những tác phẩm của người khác,
đặc biệt là của tiền nhân, hoặc của những hoạ sĩ cùng thời. Có như vậy,
người hoạ sĩ đó mới có thể học hỏi được những cái hay, cũng như tránh
được những cái dở của người khác, để tìm cho mình một hướng đi
riêng biệt, độc đáo, tránh giẫm chân lên những lối mòn.
Cũng vậy, người thưởng thức tranh, hay quần chúng yêu thích nghệ
thuật, nói chung, cũng cần có một vốn hiểu biết về những tiêu chuẩn,
quy ước của sự sáng tạo trong nghệ thuật, về những tác giả, tác phẩm
cụ thể, và về lịch sử nghệ thuật, để có thể thưởng thức một cách đầy đủ
và sâu sắc các tác phẩm ở mỗi thời kỳ nghệ thuật.
Phương tiện để cho họ có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm
nghệ thuật là : các phòng triển lãm, các viện bảo tàng, sách, báo, phim,
ảnh, và các phương tiện truyền thông. Những phương tiện này cung cấp
cho họ những thông tin cần thiết về tác phẩm và tác giả, về vị trí của
chúng trong lịch sử nghệ thuật, cho phép họ có những phản ứng đối với
tác phẩm, từ đó đi đến một sự đồng thuận về cái đẹp, cái xấu trong
nghệ thuật.
Ý kiến của các nhà phê bình nghệ thuật, cũng như của quần chúng yêu
thích nghệ thuật, trong việc đánh giá tác phẩm đôi khi cũng có ảnh
hưởng nhất định lên quan niệm nghệ thuật của các tác giả. Người hoạ
sĩ, nói chung, cần có quần chúng xem tranh của mình, để có được con
mắt của kẻ khác đối với tác phẩm của mình.
Xem như vậy, sự biết thưởng thức một tác phẩm đòi hỏi phải có một số
hiểu biết về nghệ thuật. Đó chính là một trong những mẫu số chung của
cả hai khâu sáng tạo và thưởng thức.
Trong một vài nền văn hoá ở phương Đông, đặc biệt ở Trung Quốc và
Nhật Bản, vào những thời kỳ huy hoàng của nghệ thuật cổ điển, việc
thưởng thức tranh đôi khi là cả một nghi lễ. Tác phẩm được thực hiện
trên những cuộn giấy quý, hoặc lụa, được cuộn lại và cất gọn trong tủ.
Đến khi có khách quý, chủ nhân mới trân trọng lấy ra cho khách xem.
Cách xem tranh như vậy cũng được làm trong cùng một tinh thần với
cách vẽ tranh trên những cuộn giấy quý, nâng hoạt động thưởng thức
lên ngang tầm với hoạt động sáng tạo, tương tự như trong tục trà đạo
của người Nhật Bản.
Ngoài ra, mối quan hệ qua lại giữa người sáng tạo và người thưởng
thức còn được thể hiện trên nhiều mặt khác, qua đó người ta có thể thấy
được vai trò không chỉ là thụ động của người thưởng thức, tức chủ yếu
là quần chúng yêu nghệ thuật.
Ta hãy lấy thí dụ, một người nhìn ngắm một bức tranh, cảm thụ bức
tranh đó theo khả năng thẩm mỹ và theo cái gu riêng của mình. Trong
đầu óc của người đó, tác phẩm xuất hiện dưới một dạng nào đó, và đây
cũng chính là một hình thức tái tạo lại tác phẩm theo ý riêng của mình.
Đôi khi, cái ý riêng chủ quan đó khác với ý của tác giả, cũng như khác
với sự thẩm định của những người khác.
Có thể nói, bao nhiêu người xem tranh là bấy nhiêu lần tác phẩm được
cảm thụ, diễn dịch, một cách khác nhau. Thậm chí, tác phẩm như được
sống lại mỗi lần trong trí óc của người thưởng thức, dưới những hình
thức và ý nghĩa khác nhau.
Cũng vì vậy mà một tác phẩm có thể vượt thời gian, sống những đời
sống khác nhau, trong con mắt và sự cảm nhận của nhiều thế hệ người
nối tiếp nhau.
Mẫu số chung của khả năng thưởng thức và h ...