Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 372.18 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết nêu lên mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội còn biểu hiện gay gắt. Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, thì cần phải có những giải pháp thiết thực hơn nữa.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt NamTăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộvà công bằng xã hội ở Việt NamNgô Văn Vũ1Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.Email: ngovu68@gmail.com1Nhận ngày 10 tháng 12 năm 2016. Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 01 năm 2017.Tóm tắt: Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội luônđược Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thànhtựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với pháttriển xã hội còn biểu hiện gay gắt. Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiếnbộ và công bằng xã hội, thì cần phải có những giải pháp thiết thực hơn nữa.Từ khóa: Tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, công bằng xã hội.Abstract: In Vietnam, the relationship between economic growth and social progress and equityhas always been paid attention to by the Party and State. Over the past 30 years of đổi mới(renovation), the country has made sizable achievements in socio-economic development.However, the conflict between economic and social development remains fierce. For the goodhandling of the relationship, there need to be more practical solutions.Keywords: Economic growth, social progress, social equity.1. Mở đầuTăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằngxã hội là hai tiêu chí phát triển của xã hội.Chính sách của các nhà nước nhìn chungđều nhằm thực hiện cả hai tiêu chí đó. Tuynhiên, chính sách chú trọng thúc đẩy tăngtrưởng kinh tế nhanh có thể gây ra bất bìnhđẳng (về thu nhập, cơ hội học tập, tiếp cậndịch vụ xã hội) và làm cho nghèo đói giatăng, thậm chí có thể làm phát sinh các mâuthuẫn xã hội. Ngược lại, chính sách chútrọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hộicó thể làm triệt tiêu các động lực tăngtrưởng kinh tế.Hiện nay, các quốc gia trên thế giới,trong đó có Việt Nam, đang chịu sự tácđộng mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa,của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.Trong bối cảnh đó, vấn đề giải quyết hàihòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tếvới tiến bộ và công bằng xã hội càng trở9Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 (113) - 2017nên cấp thiết. Bài viết khái quát hóa quanđiểm của Đảng về tăng trưởng kinh tế gắnvới tiến bộ và công bằng xã hội, phân tíchkết quả thực hiện quan điểm của Đảng vềtăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và côngbằng xã hội ở Việt Nam; đưa ra các giảipháp để thực hiện tốt hơn quan điểm củaĐảng về tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộvà công bằng xã hội trong điều kiện mới.2. Quan điểm của Đảng về tăng trưởngkinh tế gắn với tiến bộ và công bằngxã hộiTrải qua các giai đoạn phát triển của đấtnước, từ nhận thức đúng đắn tính thốngnhất và mâu thuẫn trong quá trình tăngtrưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thựchiện tiến bộ và công bằng xã hội, ĐảngCộng sản Việt Nam đã từng bước đề ranhững quan điểm, chủ trương đúng đắn đểxử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tếvới phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ vàcông bằng xã hội. Tư tưởng đó dần đượchoàn thiện qua các kỳ đại hội của Đảng.Giai đoạn 1986-1990, Việt Nam bướcvào thời kỳ đổi mới, được đánh dấu bằngĐại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986).Đại hội VI, lần đầu tiên đặt vấn đề về mốiquan hệ giữa phát triển kinh tế với việc giảiquyết các mục tiêu xã hội khi xác định:“Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vậtchất để thực hiện chính sách xã hội, nhưngnhững mục tiêu xã hội lại là mục đích củacác hoạt động kinh tế” [1, tr.86].Giai đoạn 1991-1995, định hướng gắnkết tăng trưởng với tiến bộ và công bằng xãhội thể hiện trong nội dung Cương lĩnh năm1991. Các định hướng chính sách lớn tronggiai đoạn 1991-1995 tập trung vào ổn địnhkinh tế vĩ mô, phát triển các thành phần10kinh tế, hình thành các thị trường nhân tốsản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế thịtrường. Chính sách xã hội bắt đầu tập trungvào giải quyết những vấn đề cơ bản nhất,đó là cải cách và đổi mới chính sách tiềnlương cho phù hợp khi chuyển đổi sang cơchế thị trường, xây dựng hệ thống an sinhxã hội, trong đó có chính sách bảo hiểm xãhội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) vàchăm sóc sức khỏe cho cả đối tượng ngoàikhu vực nhà nước. Văn kiện Đại hội lần thứVII của Đảng khẳng định: “Kết hợp hài hòagiữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa,xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộvà công bằng xã hội; giữa đời sống vật chấtvà đời sống tinh thần của nhân dân. Coiphát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thựchiện các chính sách xã hội, thực hiện tốtchính sách xã hội là động lực thúc đẩy pháttriển kinh tế” [2, tr.73]. Đến Hội nghị đạibiểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII(tháng 1/1994), mối quan hệ giữa tăngtrưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thựchiện tiến bộ và công bằng xã hội được Đảngxác định một cách rõ ràng hơn: “Tăngtrưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và côngbằng xã hội ngay trong từng bước pháttriển” [2, tr.53].Giai đoạn 1996-2000, bên cạnh tă ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt NamTăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộvà công bằng xã hội ở Việt NamNgô Văn Vũ1Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.Email: ngovu68@gmail.com1Nhận ngày 10 tháng 12 năm 2016. Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 01 năm 2017.Tóm tắt: Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội luônđược Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thànhtựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với pháttriển xã hội còn biểu hiện gay gắt. Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiếnbộ và công bằng xã hội, thì cần phải có những giải pháp thiết thực hơn nữa.Từ khóa: Tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, công bằng xã hội.Abstract: In Vietnam, the relationship between economic growth and social progress and equityhas always been paid attention to by the Party and State. Over the past 30 years of đổi mới(renovation), the country has made sizable achievements in socio-economic development.However, the conflict between economic and social development remains fierce. For the goodhandling of the relationship, there need to be more practical solutions.Keywords: Economic growth, social progress, social equity.1. Mở đầuTăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằngxã hội là hai tiêu chí phát triển của xã hội.Chính sách của các nhà nước nhìn chungđều nhằm thực hiện cả hai tiêu chí đó. Tuynhiên, chính sách chú trọng thúc đẩy tăngtrưởng kinh tế nhanh có thể gây ra bất bìnhđẳng (về thu nhập, cơ hội học tập, tiếp cậndịch vụ xã hội) và làm cho nghèo đói giatăng, thậm chí có thể làm phát sinh các mâuthuẫn xã hội. Ngược lại, chính sách chútrọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hộicó thể làm triệt tiêu các động lực tăngtrưởng kinh tế.Hiện nay, các quốc gia trên thế giới,trong đó có Việt Nam, đang chịu sự tácđộng mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa,của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.Trong bối cảnh đó, vấn đề giải quyết hàihòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tếvới tiến bộ và công bằng xã hội càng trở9Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 (113) - 2017nên cấp thiết. Bài viết khái quát hóa quanđiểm của Đảng về tăng trưởng kinh tế gắnvới tiến bộ và công bằng xã hội, phân tíchkết quả thực hiện quan điểm của Đảng vềtăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và côngbằng xã hội ở Việt Nam; đưa ra các giảipháp để thực hiện tốt hơn quan điểm củaĐảng về tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộvà công bằng xã hội trong điều kiện mới.2. Quan điểm của Đảng về tăng trưởngkinh tế gắn với tiến bộ và công bằngxã hộiTrải qua các giai đoạn phát triển của đấtnước, từ nhận thức đúng đắn tính thốngnhất và mâu thuẫn trong quá trình tăngtrưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thựchiện tiến bộ và công bằng xã hội, ĐảngCộng sản Việt Nam đã từng bước đề ranhững quan điểm, chủ trương đúng đắn đểxử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tếvới phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ vàcông bằng xã hội. Tư tưởng đó dần đượchoàn thiện qua các kỳ đại hội của Đảng.Giai đoạn 1986-1990, Việt Nam bướcvào thời kỳ đổi mới, được đánh dấu bằngĐại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986).Đại hội VI, lần đầu tiên đặt vấn đề về mốiquan hệ giữa phát triển kinh tế với việc giảiquyết các mục tiêu xã hội khi xác định:“Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vậtchất để thực hiện chính sách xã hội, nhưngnhững mục tiêu xã hội lại là mục đích củacác hoạt động kinh tế” [1, tr.86].Giai đoạn 1991-1995, định hướng gắnkết tăng trưởng với tiến bộ và công bằng xãhội thể hiện trong nội dung Cương lĩnh năm1991. Các định hướng chính sách lớn tronggiai đoạn 1991-1995 tập trung vào ổn địnhkinh tế vĩ mô, phát triển các thành phần10kinh tế, hình thành các thị trường nhân tốsản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế thịtrường. Chính sách xã hội bắt đầu tập trungvào giải quyết những vấn đề cơ bản nhất,đó là cải cách và đổi mới chính sách tiềnlương cho phù hợp khi chuyển đổi sang cơchế thị trường, xây dựng hệ thống an sinhxã hội, trong đó có chính sách bảo hiểm xãhội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) vàchăm sóc sức khỏe cho cả đối tượng ngoàikhu vực nhà nước. Văn kiện Đại hội lần thứVII của Đảng khẳng định: “Kết hợp hài hòagiữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa,xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộvà công bằng xã hội; giữa đời sống vật chấtvà đời sống tinh thần của nhân dân. Coiphát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thựchiện các chính sách xã hội, thực hiện tốtchính sách xã hội là động lực thúc đẩy pháttriển kinh tế” [2, tr.73]. Đến Hội nghị đạibiểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII(tháng 1/1994), mối quan hệ giữa tăngtrưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thựchiện tiến bộ và công bằng xã hội được Đảngxác định một cách rõ ràng hơn: “Tăngtrưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và côngbằng xã hội ngay trong từng bước pháttriển” [2, tr.53].Giai đoạn 1996-2000, bên cạnh tă ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội Tăng trưởng kinh tế Công bằng xã hội Tiến bộ xã hội Chính sách kinh tếGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô: Phần 1 - N. Gregory Mankiw, Vũ Đình Bách
117 trang 713 3 0 -
Tiểu luận: Sự ổn định của bộ ba bất khả thi và các mẫu hình kinh tế vĩ mô quốc tê
29 trang 311 0 0 -
38 trang 247 0 0
-
Nguồn lực tài chính phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam
3 trang 245 0 0 -
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - PGS.TS. Nguyễn Văn Dần (chủ biên) (HV Tài chính)
488 trang 242 1 0 -
13 trang 191 0 0
-
Đổi mới tư duy về phát triển bền vững: Nhìn từ hai cách tiếp cận phát triển bền vững
5 trang 175 0 0 -
Bài giảng Kinh tế phát triển: Chương 3 - PGS .TS Đinh Phi Hổ
35 trang 163 0 0 -
Tác động của lao động và nguồn vốn đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
5 trang 155 0 0 -
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ngân sách giáo dục tại Việt Nam giai đoạn 2000-2012
4 trang 150 0 0