Danh mục

Thái tổ phạm hoàng hậu

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 200.94 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bà họ Phạm, húy là Ngọc Trần, người xã Quần Lại, huyện Lôi Dương, Thanh Hóa. Bà là một trong số các bà vợ của Lê Lợi. Khi Lê Lợi mới khởi nghĩa đánh giặc Minh phải di chuyển luôn, không ở yện một chỗ nào, bà lặn lội theo hầu, trải nhiều gian khổ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thái tổ phạm hoàng hậu Thái tổ phạm hoàng hậu Bà họ Phạm, húy là Ngọc Trần, người xã Quần Lại, huyện LôiDương, Thanh Hóa. Bà là một trong số các bà vợ của Lê Lợi. Khi LêLợi mới khởi nghĩa đánh giặc Minh phải di chuyển luôn, không ở yệnmột chỗ nào, bà lặn lội theo hầu, trải nhiều gian khổ. Bà sinh raNguyên Long ( vua Thái Tông sau này) vào mùa đông năm Quý Mão(1423), tức vào năm thứ 6 của cuộc khởi nghĩa.Năm Ất Tỵ ( 1425) Bình Định Vương Lê Lợi vây thành Nghệ An, khiđến thành Trào Khẩu ở Hưng Nguyên, nơi có đền thờ thần Phổ Hộ.Ban đêm nhà vua nằm mộng thấy có vị thần đến bảo rằng : « Tướngquân cho tôi một người thiếp, tôi sẽ xin phù hộ tướng quân diệt giặcNgô, làm nên nghiệp đế ». Hôm sau Bình Định Vương gọi các bà vợđến, hỏi. Có ai chịu làm vợ vị thần không ? Sau này khi ta lấy đượcnghiệp nước sẽ lập con của nguòi ấy làm thiên tử. Các bà không ai nóigì, chỉ có bà họ Phạm khảng khái quỳ thưa : « Nếu minh công giữ lờihứa, thì thiếp nguyện xả thân. Ngày sau làm nên nghiệp lớn chớ phụcon thiếp », nhà vua khen ngợi và thương cảm, nói với các bà tôn,nhận theo lời hẹn đó. Khi ấy Nguyên Long mới lên 3 tuổi, bà liền chongười hầu bế ẵm nuôi nấng. Nhà vua sai làm lễ tế thần dùng bà làmvật tế. Đó là vào ngày 24 tháng 3 năm Ất Tỵ ( 1425). Khi Lê Lợi đãbình định được thiên hạ, lên ngôi vua, bảo với quần thần rằng : « Bàấy đáng làm chúa cả trăm vị thần nước ta, không ai dám trái ». Bènsai người rước quan tài về an táng ở Thanh Hóa. Đi đến xã Thịnh Mỹthì trời tối, chưa kịp qua sông phải ngủ trọ ở chợ, đến đêm mối đùnlên quanh tài một đống đất cao, biên thành nấm mồ. Sứ giả lấy làm lạtrở về tâu vua, vua chợt hiểu ra, nói : Đó là vị thần đã làm theo lờihẹn, bèn bảo cứ để quan tài ở đó, dựng điện Hiếu nhân để thờ, đồngthời dựng miếu, đặt thần chủ ở Nam Kinh để cúng tế. Đến năm KỷDậu ( 1429), nhà vua cử quận vương Tư Tề là con trưởng đã lớn làmquốc vương, tạm coi việc nước, Tư Tề là người đã từng lăn lộn từnhững này đầu của cuộc khởi nghĩa, đã từng cùng với Lưu Nhân Chúvào thành Đông Quan làm con tin để thực hiện việc hòa ước vớiVương Thông. Năm Nhâm Tý (1432) Quốc Vương Tư Tề đã đem quânđi đánh Châu Phục Lễ, bức hàng tù trương là Đèo Cát Hãn và con y làĐèo Mạnh Vượng. Cuối đời, vua Lê Thái Tổ nhiều bệnh, chính sự củanhà nước đều giao cho Vương quyết định. Nhưng vì Vương mắc chứngbệnh cuồng, giết bừa các tỳ thiếp, dần dần không hợp ý vua…Vua rấtlo nghĩ đến trách nhiệm của người thừa kế. Một hôm giữa trưa nằmngủ, chợt mộng thấy bà Hoàng hậu Phạm Ngọc Trần than trách rằng.Nhà vua phụ công của thiếp, từ hồi mới khởi nghĩa đã đem thiếp chovị thần. Nay được thiên hạ rồi, mà ơn thánh chẳng được hưởng. Vuatỉnh dậy, bồi hồi xúc cảm bèn cho lập Nguyên Long làm con đích (Hoàng Thái tử). Khi Lê Thái Tổ mất, Nguyên Long được nối ngôi lấyhiệu là Thái Tông. Tháng 6 năm Giáp Dần ( 1434) truy tôn mẹ làPhạm Ngọc Trần làm cung từ quốc thái mẫu, thờ phụng ở thái miếu.Tháng 2 năm Đinh Tỵ ( 1437), truy tôn làm Cung từ Quang Thục quốcthái mẫu. Tháng 12 năm Đinh Tỵ ( 1437) truy tôn làm Hoàng Tháihậu. Lê thái tông ( 1434 – 1442) Niên hiệu : Thiệu Bình ( 1434 – 1439)Đại Bảo ( 1439- 1442)Lê Thái Tông tên húy là Nguyên Long, sinh ngày 20 tháng 11 nămQuý Mão ( 1423), là con thứ hai của Thái Tổ. Lên ngôi vua ngày 8tháng 9 năm Quý Sửu ( 1433), lấy hiệu là Thiệu Bình. Khi lên ngôivua mới 11 tuổi, nhưng không cầm mẫu hậu che rèm nghe việc mà tựmình điều hành tất cả công việc triều đình. Các nhà viết sử ai cũngnhận xét « Vua tư chất sáng suốt tinh khôn, khi cầm quyền chính,trong ngăn ngừa kẻ cường thần, ngoài dẹp yên các man động. Trọngđạo, chuộng Nho, đặt khoa thi chọn kẻ sĩ, chế lễ nhạc, rõ chính hình,văn vật rực rỡ đủ cả, đáng khen là vua hiền ». Chính dưới triều vuaThái Tông, vào năm Thiệu Bình thứ 5, tổ chức thi Hương ở các đạo vànăm sau tổ chức thi Hội tại Kinh đô. Từ đó mở đầu ra lệ cứ ba nămmột lần thi làm lệ thường. Cũng chính dưới thời vua này, vào nămNhâm Tuất ( 1442), bắt đầu ra lệnh dựng bia ghi tên các tiến sĩ.Thái Tông lên ngôi khi còn quá trẻ lại phải đối phó với một tình hìnhtriều đình rất phức tạp. Mâu thuẫn và chia rẽ giữa hai lực lượng chính,Một bên là các công thần khai quốc đứng đầu là đại sư đồ Lê Sát, LêNgân. Với một bên là quan lại có khoa bảng, mặc dù vậy Thái Tôngvẫn có đủ bản lĩnh để không cho các đại thần hoàn toàn thao túng,ông cũng biết nghe lời can đúng đắn của các ngôn quan như NguyễnThiên Tích, Bùi Cầm Hồ để không khôi phục quan tịch cho TrịnhHoành Bá theo lời xin của Đại tư đồ Lê Sát khi bọn chúng có tội bịđuổi và xóa khỏi sổ quan từ thời vua cha. Và bởi lời Thái Tổ dặn lạirằng. Bọn Lê Quốc Khí, Trình Hoành Bá, Lê Đức Dư…Tuy có tài, nhưngkhông nên dùng lại. Vì thế khi Lê Sát xin phục chức cho bọn này,vuaThái Tông không nghe. Khi vua 15 tuổi đã biết xét đoán công việc màLê Sát vẫn còn tham quyền cố vị ( lẽ ra khi vua đã trưởng thành,quan nhiếp chính phại tự biết rút lui). Th ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: