Bài nghiên cứu này trình bày về thành ngữ và tục ngữ đóng vai trò quan trọng trong lời nói hàng ngày. Chúng là sự kết hợp của thần thoại, tôn giáo và đạo đức của các dân tộc thuộc các thời đại và thế hệ khác nhau. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thành ngữ, tục ngữ với các từ chỉ nhà cửa và thành phần của nó trong tiếng Nga THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VỚI CÁC TỪ CHỈ NHÀ CỬA VÀ THÀNH PHẦN CỦA NÓ TRONG TIẾNG NGA SVTH: Tưởng Thùy Linh 1N16 GVHD: Ts. Trần Thị Thu Hường I. GIỚI THIỆU CHUNG Theo định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì: “Thành ngữlà tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích được mộtcách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó” [1, 915], ví dụ: “Hai sương mộtnắng”, “Rán sành ra mỡ”. “Tục ngữ câu ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết trithức, kinh nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của nhân dân” [1, 1063], ví dụ: “Đói chosạch, rách cho thơm”, “Một giọt máu đào hơn ao nuớc lã”. Sự giống nhau giữa thành ngữ và tục ngữ là ở chỗ cả hai đều chứa đựng và phảnánh tri thức của nhân dân về các sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan. Sự khácnhau là ở chỗ những tri thức ấy khi được rút lại thành những khái niệm thì ta có thànhngữ, còn khi được trình bày, diễn giải thành những phán đoán thì ta có tục ngữ. Thành ngữ và tục ngữ đóng vai trò quan trọng trong lời nói hàng ngày. Chúng làsự kết hợp của thần thoại, tôn giáo và đạo đức của các dân tộc thuộc các thời đại và thếhệ khác nhau. Trong cuộc sống hiện đại, những giá trị về vật chất và tinh thần vẫn cònđược lưu giữ lại đầy đủ nhất trong ngôn ngữ, trong đó có thành ngữ nói chung. Thànhngữ chỉ nhà cửa và các thành phần liên quan đến nó thể hiện vai trò quan trọng củangôi nhà trong cuộc sống mỗi con người. II. THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VỚI CÁC TỪ CHỈ NHÀ CỬA TRONG TIẾNGNGA Đối với người Nga xây dựng nhà cửa rất quan trọng trong cuộc sống của mỗingười, chính vì nhà là trụ cột, bảo vệ và che chở. Trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Ngachúng ta thường gặp 4 từ chỉ nhà: “дом”, “изба”, “хата”, “пaлаты”. “Дом” – tên gọi chung của những loại nhà khác nhau, những căn phòng với nhữngmục đích khác nhau. Người Nga có câu tục ngữ “дома и стены помогают” (букв. ởnhà thì những bức tường cũng giúp cho). Ở nhà tức là ở nơi ta làm chủ, là nơi thuộcquyền sở hữu của ta, là nơi ta được che chở, bảo vệ, nơi không có gì nguy hiểm cho ta. 67 Изба Хата Палаты Trong thành phố người Nga xây những ngôi nhà to, giàu có, khang trang, thườngbằng đá và có nhiều phòng, tiếng Nga là “палаты”. Thành ngữ “ума палата”(букв. tríthông minh bằng cả ngôi nhà rộng lớn) nói về người rất đỗi thông minh, có khả năngtư duy sâu rộng. Theo truyền thống, ở Nga có 2 loại nhà cơ bản của nông dân: ở phương Bắc –“изба”, phương Nam – “хата”. “Изба” – nhà với những khúc gỗ tròn, đôi khi nềndựng trên sàn cao vì ở phương Bắc đất ẩm ướt. Tên gọi của loại nhà này ta bắt gặptrong câu thành ngữ “выносить сор из избы”(букв. mang rác ra khỏi nhà gỗ) điềunày có nghĩa là tiết lộ cho người ngoài điều xấu về gia đình, bôi gio trát trấu gia đìnhmình. Ngữ cố định này xuất hiện là bở vì người Nga tránh mang rác ra khỏi nhà saukhi mặt trời lặn vì sợ nghèo túng, mất mát. Хата – nhà truyền thống ở phương Nam. Trước thế kỉ XV loại nhà này thườngđược chôn sâu xuống lòng đất để giữ nhiệt. Các bức tường của loại nhà này được làmtừ đất sét, đá hoặc gỗ và tường thường được trát đát sét lên. Người Nga có câu “мояхата с краю” (букв. nhà của tôi ở ven làng) ý nói việc đó chẳng liên quan gì đến tôi,tôi chả hay biết gì cả. III. THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VỚI CÁC TỪ CHỈ THÀNH PHẦN CỦANHÀ CỬA TRONG TIẾNG NGA Các thành phần liên quan đến nhà trong các câu thành ngữ, tục ngữ được tìm thấylà mái nhà, góc nhà, ngưỡng cửa, cửa, tường, bếp lò, đồ gỗ, sân, chuồng trại, nhà tắmhơi, hàng rào, cổng, vườn rau, vườn cây. Phần trên của ngôi nhà để che chắn nó là mái nhà – “крыша”, “кров”. Nhà củangười Nga thường có hai mái dốc, ở phía trên cùng, chỗ giao hai mái dốc mái nhàđược trang trí với đầu con ngựa. Đó không phải là điều ngẫu nhiên. Xưa kia, nhà gỗNga được coi như con ngựa – loài vật linh thiêng bảo vệ con người khỏi quỷ dữ. Ngôinhà là thân ngựa, còn bốn góc nhà chính là bốn chân ngựa [4, 11]. 68 Trong rất nhiều thành ngữ của Nga,các từ “крыша”, “кров” thường đượchoán dụ để chỉ cả ngôi nhà: “иметькрышу над головой” (букв. có một máinhà trên đầu), “принимать под своюкрышу” (букв. cho vào ở dưới mái nhàcủa mình), “жить под одной крышей”(букв. sống chung dưới một mái nhà),“дать кров кому-л.” (букв. cho ai mộtmái nhà), “остаться без крова” (букв.không có một mái nhà). Thành ngữ“выше крыши” (букв. cao hơn mái nhà) chỉ việc gì đó rất khó nhọc, ngoài khả năngcủa con người. Thành ngữ “крыша поехала у кого-л.” (букв. nóc nhà đã đi mất) chỉngười nào đó hơi bị lẩn thẩn, dở hơi hoặc trong tình trạng quá mệt mỏi, hoang mang. Góc nhà là phần giao giữa hai bức t ...