Danh mục

THAY ĐỔI SẮC TỐ DO THUỐC (DRUG-INDUCED PIGMENTATION) (Kỳ 4)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 98.58 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các kim loại nặng (heavy metals): Các kim loại nặng như vàng, bạc, bismuth, thủy ngân được biết có khả năng gây rối loạn sắc tố. Tỷ lệ lưu hành của chung hiện nay giảm do ít dùng trong thực hành lâm sàng.3.1. Hiện nay, sulfadiazine bạc được xem như là tiêu chuẩn chăm sóc trong trị liệu bỏng; nghề nghiệp có tiếp xúc hoặc điều trị y khoa với các nguồn lớn muối bạc cũng gây ra tiếp xúc với bạc. Bất dung nạp hệ thống với bạc gây rối loạn sắc tố màu lam-xám (slate-gray) toàn thân,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
THAY ĐỔI SẮC TỐ DO THUỐC (DRUG-INDUCED PIGMENTATION) (Kỳ 4) THAY ĐỔI SẮC TỐ DO THUỐC (DRUG-INDUCED PIGMENTATION) (Kỳ 4) oooOOOooo 3-Các kim loại nặng (heavy metals): Các kim loại nặng như vàng, bạc, bismuth, thủy ngân được biết có khảnăng gây rối loạn sắc tố. Tỷ lệ lưu hành của chung hiện nay giảm do ít dùng trongthực hành lâm sàng. 3.1. Hiện nay, sulfadiazine bạc được xem như là tiêu chuẩn chăm sóc trongtrị liệu bỏng; nghề nghiệp có tiếp xúc hoặc điều trị y khoa với các nguồn lớn muốibạc cũng gây ra tiếp xúc với bạc. Bất dung nạp hệ thống với bạc gây rối loạn sắctố màu lam-xám (slate-gray) toàn thân, gọi là chứng da nhiễm bạc (argyria), Rối loạn sắc tố da nổi bật ở các vùng tiếp xúc ánh nắng và thường xuất hiệnở móng, củng mạc mắt, niêm mạc, các nếp trên da. Rối loạn sắc tố cũng có thể khutrú tại nơi thoa thuốc và nơi tiếp xúc với bạc như chổ đeo bông tai và kim châmcứu (acupuncture), Mô học, các hạt bạc được tìm thấy tích tụ ở màng đáy, các tuyến mồ hôinước, các sợi đàn hồi của vùng dưới bì; các hạt này kích thích sản xuất melanin từcác hắc tố bào. Rối loạn sắc tố giảm chậm sau khi ngưng sử dụng thuốc. 3.2. Vàng là một kim loại nặng khác được dùng hiện nay để điều trị thaythế trong các bệnh nhân pemphigus vulgaris, thấp khớp, viêm khớp do vẩy nến. Sửdụng kéo dài với liều tích lũy tối thiểu 20mg/kg có thể gây tăng sắc tố màu xanh-xám (bleu-gray) ở vùng da tiếp xúc ánh nắng (sun-exposed skin), gọi là chứngđọng muối vàng ở mô (chrysiasis), chúng có thể tồn tại lâu dài ở quanh mắt. Thayđổi sắc tố khu trú do đeo nữ trang bằng vàng cũng đã được báo cáo; tuy nhiên,vàng không là nguyên nhân gây rối loạn sắc tố ở móng hoặc niêm mạc như bạc.Sinh thiết xác định các mảnh vàng bên trong các thể lysosome của đại thực bào ởlớp bì và quanh các mạch máu. Tránh tiếp xúc ánh nắng cùng với tạm ngưng(cessation) sử dụng vàng cho phép giảm chậm các rối loạn sắc tố. 3.3. Tiêm muối sắt vào lớp bì có thể gây rối loạn sắc tố màu xanh-xám tạichổ tiêm lâu dài; hình ảnh này cũng xảy ra ở bệnh nhân thiếu máu thiếu sắt hoặcsau khi dùng ferric subsulfate (Monsel solution) như là một chất cầm máu(hemostatic). Mô học, tích tụ các mảnh sắt trong các đại thực bào hoặc dọc theocác sợi collagen ở lớp bì. 4- Tetracycline: -Rối loạn sắc tố là hiệu ứng phụ gây lúng túng liên quan với nhómTetracycline, đặc biệt là với minocycline. Nhóm Tetracycline, bao gồm cảminocycline, gây rối loạn sắc tố có màu nâu (brown) ở răng của trẻ em, chỉ nêndùng thuốc nhóm này cho trẻ trên 9 tuổi. -Minocycline là kháng sinh tan trong mỡ (lipid-soluble) và tác động chốngviêm thường dùng điều trị mụn trứng cá hoặc các tình trạng viêm khác; tác dụngphụ trên da xảy ra do dùng thường xuyên, tăng sắc tố xảy ra khoảng 3-5% tất cảbệnh nhân sử dụng lâu dài -Hơn nữa khi dùng với chu kỳ kéo dài, các yếu tố nguy cơ khác như là liềutích lũy cao, tăng tiếp xúc ánh nắng, thay đổi da do viêm đã được nhận thấy làmgia tăng nguy cơ tăng sắc tố liên quan với minocycline. -Minocycline gây 3 loại rối loạn sắc tố: +Type I là rối loạn sắc tố màu xanh-đen (blue-black) khu trú ở mô sẹo vàcác vị trí sau viêm; các rối loạn sắc tố này gây ra do tích tụ hemosiderin và/hoặcsắt chelate ở lớp bì, +Type II là rối loạn sắc tố màu xanh-xám (blue-gray) trên da thường tại tứchi, đạc biệt là vùng trước cẳng chân (có thể giống hệt rối loạn sắc tố do thuốcchống sốt rét). Các thay đổi này do tích tụ melanin và các hạt chứa sắt ở lớp bì vàmô dưới da (subcutis), +Type III là tăng sắc tố màu nâu (brown) toàn thân thấy rõ ở vùng da tiếpxúc ánh nắng , do gia tăng melanin ở lớp đáy (không có tích tụ sắt). -Nhận xét trên lâm sàng, các mô khác như củng mạc mắt, niêm mạc miệng,tuyến giáp, vú, động mạch chủ, xương, hạch lympho có thể biểu hiện rối loạn sắctố. -Mô học tuỳ thuộc vào các type lâm sàng của rối loạn sắc tố. -Tạm ngưng điều trị bằng minocycline làm phai đi các rối loạn sắc tố, mặcdù một số trường hợp không hoàn toàn mất hẳn. -Các năm gần đây, Laser xóa vết xăm (tattoo) như laser Q-switched rubynhận thấy có hiệu quả làm giảm thiểu rối loạn sắc tố sau khi đã ngưng minocyclie. 5-Amiodarone: -Amiodarone là một thuốc dãn mạch vành dùng điều trị loạn nhịp tim(cardiac arrhythmia), có thể gây rối loạn sắc tố màu xanh-xám (blue-gray) hoặctím (violaceous) ở vùng da tiếp xúc ánh nắng và các chấm nhỏ màu vàng-nâu(yellow-brown) ở giác mạc mắt -Thay đổi sắc tố thường phát triển sau điều trị kéo dài (≥ 6 tháng); nguy cơcác tác dụng phụ trên da gia tăng với chu kỳ dùng thuốc kéo dài và liều lớn hơn400mg/ngày. -Đa số theo thời gian, rối loạn sắc tố sẽ tiến triển bởi phản ứng dị ứng ánhsáng. -Khảo s ...

Tài liệu được xem nhiều: