Thế giới lượng tử kì bí: Hiệu ứng Hamlet
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 119.19 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Michael Brooks Từ những con mèo không biết sống chết ra sao cho đến những hạt thoắt ẩn thoắt hiện từ hư vô, từ những cái ấm nước không sôi – thỉnh thoảng thôi – cho đến những tác dụng ma quỷ xuyên khoảng cách, vật lí lượng tử mang lại những điều thú vị đánh đổ các trực giác của chúng ta về sự hoạt động của thế giới vật chất.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thế giới lượng tử kì bí: Hiệu ứng Hamlet Thế giới lượng tử kì bí: Hiệu ứng Hamlet Michael Brooks Từ những con mèo không biết sống chết ra sao cho đến những hạt thoắt ẩnthoắt hiện từ hư vô, từ những cái ấm nước không sôi – thỉnh thoảng thôi – cho đếnnhững tác dụng ma quỷ xuyên khoảng cách, vật lí lượng tử mang lại những điều thúvị đánh đổ các trực giác của chúng ta về sự hoạt động của thế giới vật chất. Một cái ấm đã được quan sát thấy không bao giờ sôi. Với kinh nghiệm hàngngày và vật lí học cổ điển, bạn có thể cãi lại phát biểu đó. Nhưng vật lí lượng tử sẽngắt lời bạn. Những cái ấm lượng tử được quan sát thấy thật sự không thèm sôi –thỉnh thoảng thôi. Vào những lúc khác, chúng lại sôi nhanh hơn. Nhưng khi chưađến những lúc khác đó, thì quan sát cho thấy chúng ở trong tình thế lưỡng nanmang tính hiện sinh là không biết có sôi hay không. Tính “khùng khùng” này là một hệ quả hợp lí của phương trình Schrödinger,công thức do nhà vật lí người Áo Erwin Schrödinger pha chế vào năm 1926 để môtả các đối tượng lượng tử tiến triển như thế nào về mặt xác suất theo thời gian. Không biết sôi hay không sôi? (Ảnh: OJO Images / Rex Features) Hãy tưởng tượng, chẳng hạn, tiến hành một thí nghiệm với một nguyên tửphóng xạ ban đầu chưa phân hủy đựng trong một cái hộp. Theo phương trìnhSchrödinger, tại bất cứ thời điểm nào sau khi bạn bắt đầu thí nghiệm thì nguyên tửđó tồn tại trong một sự hỗn hợp, hay “sự chồng chất”, của các trạng thái đã phânhủy và chưa phân hủy. Mỗi trạng thái có một xác suất gắn liền với nó chứa trong một mô tả toán họcgọi là hàm sóng. Theo thời gian, hễ khi nào bạn không nhìn, thì hàm sóng đó tiếntriển cùng xác suất của trạng thái đã phân hủy tăng lên dần dần. Chừng nào bạnthật sự nhìn vào, thì nguyên tử đó chọn – theo kiểu phù hợp với các xác suất hàmsóng – trạng thái nào sẽ tiết lộ chính nó, và hàm sóng “suy sụp” thành một trạngthái hoàn toàn xác định. Đây là hình ảnh đã khai sinh ra con mèo tội nghiệp của Schrödinger. Giả sựphân hủy phóng xạ của một nguyên tử kích hoạt một lọ chất khí độc mở nắp, vàmột con mèo ở trong chiếc hộp cùng với nguyên tử đó và cái lọ. Có phải con mèovừa chết vừa sống hễ khi nào chúng ta không biết phân hủy phóng xạ đã xảy ra haychưa? Chúng ta không biết. Tất cả những gì chúng ta biết là những kiểm tra với cácđối tượng ngày càng lớn hơn – trong đó có thí nghiệm mới đây, một sợi dây kimloại đang cộng hưởng đủ lớn để nhìn thấy dưới kính hiển vi – dường như chứng tỏrằng chúng thật sự nhận đồng thời cả hai trạng thái (Nature, vol 464, tr.697). Cái lạ lùng nhất của tất cả những điều này là ở chỗ chỉ cần nhìn vào vật chấtđã làm thay đổi cách thức nó hành xử. Lấy một nguyên tử đang phân hủy: việcquan sát nó và nhận thấy nó chưa phân hủy thiết đặt lại hệ ở một trạng thái xácđịnh, và phương trình Schrödinger tiến triển theo hướng “đã phân hủy” phải khởiđộng lại lần nữa từ sự nhập nhằng. Hệ quả là nếu bạn giữ việc đo đạc đủ mức thường xuyên, thì hệ sẽ không baogiờ có thể phân hủy. Khả năng này được đặt tên là hiệu ứng Zeno lượng tử, theotên nhà triết học Hi Lạp Zeno xứ Elea, người đã nghĩ ra một nghịch lí nổi tiếng“chứng minh” rằng nếu bạn chia thời gian thành những thời khắc càng lúc càngnhỏ, thì bạn có thể làm cho sự biến dịch hay chuyển động không còn có thể xảy ranữa. Và hiệu ứng Zeno lượng tử thật sự xảy ra. Năm 1990, các nhà nghiên cứu tạiViện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Hoa Kì ở Boulder, Colorado, đã chứng tỏđược rằng họ có thể giữ một ôn beryllium trong một cấu hình năng lượng khôngbền, na ná như cho đứng thăng bằng một cái bút chì trên đầu nhọn của nó, chophép họ tiếp tục đo lại năng lượng của nó (Physical Review A, vol 41, tr. 2295). Hiệu ứng “phản Zeno” – làm cho một cái ấm lượng tử sôi nhanh hơn chỉ bằngcách đo nó – cũng xảy ra. Nơi một đối tượng lượng tử có một cấu hình phức tạpcủa các trạng thái di chuyển vào, thì một phân hủy thành một trạng thái nănglượng thấp hơn có thể tăng tốc bằng cách đo hệ theo một kiểu thích hợp. Năm2001, hiện tượng này cũng đã được quan sát thấy trong phòng thí nghiệm(Physical Review Letters, vol 87, tr.040402). Điều kì lạ thứ ba là “hiệu ứng Hamlet lượng tử”, do Vladan Pankovic ởtrường đại học Novi Sad, Serbia, đề xuất hồi năm ngoái. Ông nhận thấy một chuỗiphép đo đặc biệt phức tạp có thể ảnh hưởng đến một hệ theo kiểu sao cho làm chophương trình Schrödinger tiến triển theo hướng không kiểm soát được. NhưPankovic trình bày: đã phân hủy hay chưa phân hủy, “đó là câu hỏi không thể trảlời được dựa trên phân tích”. Thế giới lượng tử kì bí: Cái sinh ra từ hư vô Michael Brooks Từ những con mèo không biết sống chết ra sao cho đến những hạt thoắt ẩnthoắt hiện từ hư vô, từ những cái ấm nước không sôi – thỉnh thoảng thôi – cho đếnnhững tác dụng ma quỷ xuyên khoảng các ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thế giới lượng tử kì bí: Hiệu ứng Hamlet Thế giới lượng tử kì bí: Hiệu ứng Hamlet Michael Brooks Từ những con mèo không biết sống chết ra sao cho đến những hạt thoắt ẩnthoắt hiện từ hư vô, từ những cái ấm nước không sôi – thỉnh thoảng thôi – cho đếnnhững tác dụng ma quỷ xuyên khoảng cách, vật lí lượng tử mang lại những điều thúvị đánh đổ các trực giác của chúng ta về sự hoạt động của thế giới vật chất. Một cái ấm đã được quan sát thấy không bao giờ sôi. Với kinh nghiệm hàngngày và vật lí học cổ điển, bạn có thể cãi lại phát biểu đó. Nhưng vật lí lượng tử sẽngắt lời bạn. Những cái ấm lượng tử được quan sát thấy thật sự không thèm sôi –thỉnh thoảng thôi. Vào những lúc khác, chúng lại sôi nhanh hơn. Nhưng khi chưađến những lúc khác đó, thì quan sát cho thấy chúng ở trong tình thế lưỡng nanmang tính hiện sinh là không biết có sôi hay không. Tính “khùng khùng” này là một hệ quả hợp lí của phương trình Schrödinger,công thức do nhà vật lí người Áo Erwin Schrödinger pha chế vào năm 1926 để môtả các đối tượng lượng tử tiến triển như thế nào về mặt xác suất theo thời gian. Không biết sôi hay không sôi? (Ảnh: OJO Images / Rex Features) Hãy tưởng tượng, chẳng hạn, tiến hành một thí nghiệm với một nguyên tửphóng xạ ban đầu chưa phân hủy đựng trong một cái hộp. Theo phương trìnhSchrödinger, tại bất cứ thời điểm nào sau khi bạn bắt đầu thí nghiệm thì nguyên tửđó tồn tại trong một sự hỗn hợp, hay “sự chồng chất”, của các trạng thái đã phânhủy và chưa phân hủy. Mỗi trạng thái có một xác suất gắn liền với nó chứa trong một mô tả toán họcgọi là hàm sóng. Theo thời gian, hễ khi nào bạn không nhìn, thì hàm sóng đó tiếntriển cùng xác suất của trạng thái đã phân hủy tăng lên dần dần. Chừng nào bạnthật sự nhìn vào, thì nguyên tử đó chọn – theo kiểu phù hợp với các xác suất hàmsóng – trạng thái nào sẽ tiết lộ chính nó, và hàm sóng “suy sụp” thành một trạngthái hoàn toàn xác định. Đây là hình ảnh đã khai sinh ra con mèo tội nghiệp của Schrödinger. Giả sựphân hủy phóng xạ của một nguyên tử kích hoạt một lọ chất khí độc mở nắp, vàmột con mèo ở trong chiếc hộp cùng với nguyên tử đó và cái lọ. Có phải con mèovừa chết vừa sống hễ khi nào chúng ta không biết phân hủy phóng xạ đã xảy ra haychưa? Chúng ta không biết. Tất cả những gì chúng ta biết là những kiểm tra với cácđối tượng ngày càng lớn hơn – trong đó có thí nghiệm mới đây, một sợi dây kimloại đang cộng hưởng đủ lớn để nhìn thấy dưới kính hiển vi – dường như chứng tỏrằng chúng thật sự nhận đồng thời cả hai trạng thái (Nature, vol 464, tr.697). Cái lạ lùng nhất của tất cả những điều này là ở chỗ chỉ cần nhìn vào vật chấtđã làm thay đổi cách thức nó hành xử. Lấy một nguyên tử đang phân hủy: việcquan sát nó và nhận thấy nó chưa phân hủy thiết đặt lại hệ ở một trạng thái xácđịnh, và phương trình Schrödinger tiến triển theo hướng “đã phân hủy” phải khởiđộng lại lần nữa từ sự nhập nhằng. Hệ quả là nếu bạn giữ việc đo đạc đủ mức thường xuyên, thì hệ sẽ không baogiờ có thể phân hủy. Khả năng này được đặt tên là hiệu ứng Zeno lượng tử, theotên nhà triết học Hi Lạp Zeno xứ Elea, người đã nghĩ ra một nghịch lí nổi tiếng“chứng minh” rằng nếu bạn chia thời gian thành những thời khắc càng lúc càngnhỏ, thì bạn có thể làm cho sự biến dịch hay chuyển động không còn có thể xảy ranữa. Và hiệu ứng Zeno lượng tử thật sự xảy ra. Năm 1990, các nhà nghiên cứu tạiViện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Hoa Kì ở Boulder, Colorado, đã chứng tỏđược rằng họ có thể giữ một ôn beryllium trong một cấu hình năng lượng khôngbền, na ná như cho đứng thăng bằng một cái bút chì trên đầu nhọn của nó, chophép họ tiếp tục đo lại năng lượng của nó (Physical Review A, vol 41, tr. 2295). Hiệu ứng “phản Zeno” – làm cho một cái ấm lượng tử sôi nhanh hơn chỉ bằngcách đo nó – cũng xảy ra. Nơi một đối tượng lượng tử có một cấu hình phức tạpcủa các trạng thái di chuyển vào, thì một phân hủy thành một trạng thái nănglượng thấp hơn có thể tăng tốc bằng cách đo hệ theo một kiểu thích hợp. Năm2001, hiện tượng này cũng đã được quan sát thấy trong phòng thí nghiệm(Physical Review Letters, vol 87, tr.040402). Điều kì lạ thứ ba là “hiệu ứng Hamlet lượng tử”, do Vladan Pankovic ởtrường đại học Novi Sad, Serbia, đề xuất hồi năm ngoái. Ông nhận thấy một chuỗiphép đo đặc biệt phức tạp có thể ảnh hưởng đến một hệ theo kiểu sao cho làm chophương trình Schrödinger tiến triển theo hướng không kiểm soát được. NhưPankovic trình bày: đã phân hủy hay chưa phân hủy, “đó là câu hỏi không thể trảlời được dựa trên phân tích”. Thế giới lượng tử kì bí: Cái sinh ra từ hư vô Michael Brooks Từ những con mèo không biết sống chết ra sao cho đến những hạt thoắt ẩnthoắt hiện từ hư vô, từ những cái ấm nước không sôi – thỉnh thoảng thôi – cho đếnnhững tác dụng ma quỷ xuyên khoảng các ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu vật lý vật lý phổ thông giáo trình vật lý bài giảng vật lý đề cương vật lýGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Vật lý đại cương A2: Phần 2 - ThS. Trương Thành
78 trang 121 0 0 -
Giáo trình hình thành ứng dụng điện thế âm vào Jfet với tín hiệu xoay chiều p2
10 trang 55 0 0 -
Giáo trình giải thích việc nôn mửa do phản xạ hoặc do trung khu thần kinh bị kích thích p10
5 trang 54 0 0 -
Giáo trình hình thành đặc tính kỹ thuật của bộ cánh khuấy Mycom trong hệ số truyền nhiệt p2
5 trang 47 0 0 -
Giáo trình Vật lý phân tử và nhiệt học: Phần 1
54 trang 47 0 0 -
Bài giảng Vật lý lớp 10: Chương 4 - Các định luật bảo toàn
6 trang 43 0 0 -
Giáo trình hình thành nguyên lý ứng dụng hệ số góc phân bố năng lượng phóng xạ p4
10 trang 42 0 0 -
Bài giảng Vật lý 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản
88 trang 39 0 0 -
Bài giảng Vật lý lớp 10 bài 7: Gia tốc - chuyển động thẳng biến đổi đều
9 trang 38 0 0 -
13. TƯƠNG TÁC GIỮA HAI DÒNG ĐIỆN THẲNG SONG SONG. ĐỊNH NGHĨA ĐƠN VỊ AM-PE
4 trang 36 0 0