Thiết kế bộ công cụ để đánh giá năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo là một vấn đề quan trọng, góp phần xác định được các biện pháp cụ thể trong dạy học ở trường phổ thông để hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh, đặc biệt là với giáo dục miền núi. Bài báo nghiên cứu xây dựng bộ công cụ để đánh giá năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh các tỉnh miền núi Tây Bắc thông qua dạy học dự án.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thiết kế bộ công cụ đánh giá năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh các tỉnh miền núi Tây Bắc thông qua dạy học dự án trong môn Hóa học
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số 443 (Kì 1 - 12/2018), tr 47-53
THIẾT KẾ BỘ CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
VÀ SÁNG TẠO CHO HỌC SINH CÁC TỈNH MIỀN NÚI TÂY BẮC
THÔNG QUA DẠY HỌC DỰ ÁN TRONG MÔN HÓA HỌC
Nguyễn Ngọc Duy - Trường Đại học Tây Bắc
Ngày nhận bài: 25/09/2018; ngày sửa chữa: 23/10/2018; ngày duyệt đăng: 25/10/2018.
Abstract: Designing a toolkit for solving problem and creativity capacity assessment plays an
important role, helps to identify specific measures in teaching at high schools to form and develop
problem-solving and creativity capacity for students, especially for education in mountainous area.
This paper focuses on designing a toolkit for problem-solving and creativity capacity assessment
of students in Northwestern mountainous provinces through using project based learning.
Keywords: Capacity, solving problem and creativity capacity, toolkit, assessment, student,
Northwest, project based learning.
1. Mở đầu
Chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015 được
xây dựng theo định hướng phát triển năng lực người học.
Do vậy, để đánh giá năng lực nói chung và năng lực giải
quyết vấn đề và sáng tạo (NLGQVĐ&ST) của học sinh
(HS) nói riêng, giáo viên (GV) cần phải thiết kế và sử
dụng bộ công cụ đánh giá theo định hướng này.
Để thiết kế bộ công cụ đánh giá NLGQVĐ&ST của
HS cần dựa vào khái niệm, các biểu hiện của
NLGQVĐ&ST, các tiêu chuẩn, tiêu chí và các mức độ
thể hiện NLGQVĐ&ST của HS trong học tập. Bộ công
cụ đánh giá năng lực cần thể hiện sự đa dạng, phong phú
gắn với đặc thù môn Hóa học và đặc điểm của giáo dục
trung học phổ thông (THPT) các tỉnh miền núi Tây Bắc.
Bài viết nghiên cứu xây dựng bộ công cụ để đánh giá
NLGQVĐ&ST cho HS các tỉnh miền núi Tây Bắc thông
qua dạy học dự án (DHDA).
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
Dựa trên nhiều nghiên cứu, có thể thấy, giải quyết vấn
đề (GQVĐ) là quá trình tư duy phức tạp, bao gồm sự hiểu
biết, đưa ra luận điểm, suy luận, đánh giá, giao tiếp,... để
đưa ra một hoặc nhiều giải pháp khắc phục khó khăn,
thách thức của vấn đề. Trong quá trình GQVĐ, chủ thể
thường phải trải qua hai giai đoạn cơ bản: khám phá vấn
đề và tổ chức nguồn lực của chính mình (tìm hiểu vấn đề;
tìm hướng đi, thủ pháp, tiến trình,... để dần tiến tới một
giải pháp cho vấn đề); thực hiện giải pháp (giải quyết các
vấn đề nhỏ hơn ở từng lĩnh vực/nội dung cụ thể; chuyển
đổi ý nghĩa của kết quả thu được về bối cảnh thực tiễn)
và đánh giá giải pháp vừa thực hiện, hoặc tìm kiếm giải
pháp khác. Qua đó, năng lực GQVĐ thể hiện khả năng
của cá nhân (khi làm việc một mình hoặc làm việc cùng
một nhóm) để tư duy, suy nghĩ về tình huống vấn đề và
tìm kiếm, thực hiện giải pháp cho vấn đề đó.
47
Cho tới nay, khái niệm năng lực và NLGQVĐ&ST
có nhiều định nghĩa khác nhau phản ánh các khía cạnh
khác nhau của khái niệm này. Tuy nhiên, theo khái niệm
năng lực được nêu ra trong tài liệu [1; tr 44], chúng tôi
quan niệm NLGQVĐ&ST là: “Khả năng cá nhân tư duy
một cách độc lập, sử dụng hiệu quả các quá trình nhận
thức, hành động và thái độ, động cơ, xúc cảm để giải
quyết những tình huống, những vấn đề học tập và thực
tiễn mà ở đó không có sẵn quy trình, thủ tục, giải pháp
thông thường, đồng thời có thể hình thành và triển khai
được các ý tưởng mới”.
2.2. Cơ sở thiết kế bộ công cụ đánh giá năng lực giải
quyết vấn đề và sáng tạo của học sinh thông qua dạy
học dự án
Để thiết kế bộ công cụ đánh giá NLGQVĐ&ST của
HS cần dựa vào các cơ sở sau:
- Đặc điểm và tiến trình của DHDA:
+ Theo [2], [3], đặc điểm của DHDA được mô tả theo
sơ đồ sau:
Sơ đồ 1. Đặc điểm và tiến trình của DHDA
+ Tiến trình của dạy học theo dự án gồm 6 bước cơ
bản: Lựa chọn chủ đề, lập kế hoạch, thu thập thông tin,
xử lí thông tin, trình bày kết quả, đánh giá kết quả.
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số 443 (Kì 1 - 12/2018), tr 47-53
- Đặc điểm nhận thức của HS THPT miền núi Tây Bắc:
+ HS chủ yếu là con em các dân tộc thiểu số, chất
lượng cuộc sống thấp, khả năng nhận thức, tính tự lực,
chủ động sáng tạo cũng như khả năng giao tiếp bằng
tiếng phổ thông còn nhiều hạn chế.
+ Phần lớn HS đều chăm ngoan, chịu khó, tuy nhiên
bản thân HS không có tố chất, chưa có động cơ, chưa có
ý chí và yếu về kĩ năng học tập.
+ Điều kiện về kinh tế, xã hội của địa phương còn
nhiều khó khăn dẫn đến cơ sở vật chất đầu tư cho giáo
dục còn nhiều hạn chế.
- Biểu hiện NLGQVĐ&ST của HS thông qua DHDA:
Từ kết quả nghiên cứu về NLGQVĐ&ST và thực tiễn
dạy học môn Hóa học ở trường THPT và đặc điểm nhận
thức của HS THPT các tỉnh miền núi Tây Bắc, đề xuất
10 biểu hiện NLGQVĐ&ST của HS qua sử dụng DHDA
như sau:
+ Phân tích, xác định được mục tiêu, tình huống,
nhiệm vụ học tập của dự án;
+ Đề xuất được câu hỏi nghiên cứu và xác định các
nội dung cụ thể cho đề tài dự án;
+ Xác định, thu thập và xử lí thông tin, đảm bảo sự
phù hợp cho việc thực hiện dự án;
+ ...