Danh mục

Thời đại Đá mới ở Việt Nam

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 554.85 KB      Lượt xem: 20      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ðến văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (khoảng 6.000 10.000 năm), con người đã biết dùng công cụ cuội được ghè đẽo một mặt, bắt đầu biết mài rìu đá, làm đồ gốm và có khả năng đã biết đến trồng trọt sơ khai..Đó là những biểu hiện ban đầu của thời đại Đá mới. Trong giai đoạn này trên đất Việt Nam, đã xuất hiện những nhóm cư dân tiền sử có đặc trưng văn hoá là thuộc thời đại Đá mới......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thời đại Đá mới ở Việt Nam Thời đại Đá mới ở Việt Nam (Tiếp theo)Thứ Hai, 21/02/2011, 03:54 CH | Lượt xem: 253Ðến văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (khoảng 6.000 -10.000 năm), con người đã biết dùng công cụ cuộiđược ghè đẽo một mặt, bắt đầu biết mài rìu đá, làmđồ gốm và có khả năng đã biết đến trồng trọt sơkhai..Đó là những biểu hiện ban đầu của thời đại Đámới.Trong giai đoạn này trên đất Việt Nam, đã xuất hiệnnhững nhóm cư dân tiền sử có đặc trưng văn hoá làthuộc thời đại Đá mới... Con người trong giai đoạnnày đã biết dùng những chiếc rìu đá được mài nhẵnhoàn toàn, những chiếc vòng tay đá được khoan rấtkhéo, và những đồ gốm có hoa văn rất đẹp.Văn Hoá Hoà Bình:Văn hóa khảo cổ mang tên tỉnh Hoà Bình, nơi nhàkhảo cổ người Pháp Côlani (M. Colani) phát hiện vàkhai quật di tích đầu tiên vào năm 1927. Thuật ngữVHHB được các nhà tiền sử học Viễn Đông họp tạiHà Nội thông qua năm 1932. Các di tích VHHB phânbố ở hầu khắp các nước Đông Nam Á lục địa, nhưngtập trung nhất là Việt Nam với trên 120 di chỉ. Cưdân VHHB chủ yếu sống trong các hang động đá vôi,săn bắt hái lượm là hoạt động kinh tế chính, có thể đãbiết đến nông nghiệp sơ khai. Người Hoà Bình chếtác công cụ lao động từ đá cuội sông suối, loại hìnhtiêu biểu nhất là rìu hình hạnh nhân, nạo hình đĩa, rìungắn, rìu mài lưỡi; ít chế tác và sử dụng công cụ từxương và vỏ trai, có thể đã sử dụng đồ gốm trongsinh hoạt. Người Hoà Bình chôn người chết tại nơi cưtrú, chủ yếu theo tư thế nằm co, có rải đá, vỏ ốc hoặcthan tro dưới thi hài, di cốt được bôi thổ hoàng.Người Hoà Bình có nghệ thuật dung dị, mang tínhước lệ, phản ánh quan hệ của con người với môitrường và tín ngưỡng tâm linh. VHHB có niên đạituyệt đối sớm nhất là 18.000 năm và muộn nhất 7.500năm cách ngày nay, thuộc thời đại đá mới; phát triểnqua 3 giai đoạn: Hoà Bình sớm (18.000 - 12.000năm), Hoà Bình điển hình (12.000 - 9.000 năm) vàHoà Bình phát triển (9.000 - 7.500 năm). VHHB cónguồn gốc từ văn hoá Sơn Vi và đóng góp vào sựhình thành một số văn hoá đá mới ở Việt Nam như:Đa Bút, Cái Bèo, Quỳnh Văn; đồng thời đóng gópvào việc tạo dựng sắc thái văn hoá Đông Nam Áthống nhất trong đa dạng.Văn Hoá Bắc SơnVăn hoá Bắc Sơn là văn hoá sơ kì đá mới. Cư dânVHBS sống trong hang động hoặc mái đá trong vùngnúi đá vôi Bắc Sơn. Kinh tế: săn bắt, hái lượm và làmgốm. Công cụ tiêu biểu: rìu cuội ghè đẽo mài lưỡi,thường được gọi là rìu Bắc Sơn và thỏi đá phiến códấu hai rãnh song song, gọi là dấu Bắc Sơn. VHBSphát triển tiếp sau văn hoá Hoà Bình, tồn tại cáchngày nay khoảng từ 7 - 10 nghìn năm.Văn Hoá Đa BútVăn hoá khảo cổ được gọi theo tên địa điểm Đa Bút ởThanh Hoá, Việt Nam, do Patơ (E. Patte) khai quậtnăm 1932 và các nhà khảo cổ định danh. Đến nay, đãphát hiện được 8 địa điểm VHĐB, phân bố ở đồngbằng Thanh Hoá và Ninh Bình, niên đại từ trên 4.000đến 6.000 năm cách ngày nay. Phát triển qua các giaiđoạn: Đa Bút, Cồn Cổ Ngựa (lớp trên) và Gò Trũng.Đặc trưng nổi bật là đồ gốm pha nhiều sạn sỏi to, đáytròn, không chân đế, miệng đứng thẳng hơi loe, thànhmiệng cao, bụng hình cầu, văn đập hình nan đan.Đồ đá có sự biến đổi nhanh từ kĩ thuật mài lan thânsang rìu mài toàn thân, kích thước nhỏ, cùng với đục,cưa, cối, chày, dùi, vòng đá hình bánh xe và đặc biệtlà chì lưới đánh cá làm từ đá phiến và đất nung hìnhquả nhót có khía rãnh để buộc dây. Cư dân VHĐBtừng khai phá đồng bằng châu thổ Sông Mã, trồngtrọt một số loại cây rau, củ; phát triển nghề đánh cátrên sông biển, là một trong những trung tâm sản xuấtgốm thời đại đá mới ở Việt Nam. VHĐB có nguồngốc từ văn hoá Hoà Bình và đóng góp vào sự hìnhthành các văn sơ kì kim khí ở khu vực.Văn Hoá Hạ LongVăn hoá khảo cổ mang tên vịnh biển nổi tiếng ởQuảng Ninh, do các nhà khảo cổ học Việt Nam địnhdanh. Đến nay đã phát hiện được 27 địa điểm.VHHL, phân bố trên cồn cát, eo đất hoặc hang độnghải đảo... ven biển Quảng Ninh và Hải Phòng. Côngcụ đá gồm rìu bôn kích thước nhỏ, mài toàn thân;chày, hòn kê, bàn mài có các rãnh cắt ngang hình chữU.Đồ gốm có gốm cứng, mỏng, gốm xốp, trang trí hoavăn đắp thêm, khắc vạch kết hợp trổ lỗ. Bôn có vai cónấc, gốm xốp và bàn mài rãnh là di vật tiêu biểu đặctrưng cho VHHL. VHHL phát triển từ văn hoá CáiBèo, giao lưu, trao đổi với các nền văn hoá đồng đạikhác như Phùng Nguyên, Hà Giang, Mai Pha, HoaLộc (Bắc Việt Nam) và các đảo ven biển Nam TrungQuốc; đóng góp vào sự hình thành văn hoá Đông Sơnvùng ven biển Việt Nam. Cư dân VHHL có niên đại4.000 năm cách ngày nay, thạo nghề biển, đạt tớiđỉnh cao kĩ thuật nghề gốm, biết trồng trọt, xe sợi đanlưới, làm dây câu, đóng bè và đi biển.Văn Hoá Bàu Tró:Văn hoá khảo cổ mang tên địa điểm Bàu Tró ở ĐồngHới (Quảng Bình; Việt Nam), do Patơ (E. Patte) khaiquật năm 1923. Đến nay đã phát hiện hơn 20 địađiểm của văn hoá này với các loại hình: cồn sò điệp,cồn cát và cồn đất, phân bố dọc đồng bằng ven biểntừ Nghệ An tới Quảng Bình. Công cụ đá có rìu, bôn,cuốc, đục, dao, cưa, mũi khoan, bàn ...

Tài liệu được xem nhiều: