Thôi xao
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 147.27 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Thôi xao"Thôi" là "đẩy". "Xao" là "gõ". Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn. Cảnh vắng, trăng thanh, chim đậu trên cành cây bên bến nước, bóng người chiếu xuống mặt nước đầm, sư thấy lòng thơ lai láng, tức cảnh ngâm: Điểu túc trì biên thọ. Tăng thôi (xao) nguyệt hạ môn. Độc hành đàm để ảnh, Sác tức thụ biên thân.Tạm dịch: Chim đỗ cây bến nước, Sư đẩy (gõ) cửa dưới trăng. Mình đi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thôi xao Thôi xaoThôi là đẩy.Xao là gõ.Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thongthả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn. Cảnh vắng, trăng thanh,chim đậu trên cành cây bên bến nước, bóng người chiếu xuống mặt nước đầm, sưthấy lòng thơ lai láng, tức cảnh ngâm:Điểu túc trì biên thọ.Tăng thôi (xao) nguyệt hạ môn.Độc hành đàm để ảnh,Sác tức thụ biên thân.Tạm dịch:Chim đỗ cây bến nước,Sư đẩy (gõ) cửa dưới trăng.Mình đi bóng chiếu xuống,Tựa cây mà thở than.Giả Đảo ngâm đi ngâm lại, nhận thấy chữ thôi trong câu Tăng thôi nguyệt hạmôn không được ổn, nên đổi lại xao. Nhưng cũng không vừa ý. Ông đọc thôirồi lại xao, lại đọc xao rồi đọc thôi. Rốt cuộc ông phân vân không biết dùngchữ nào cho thích hợp.Ông tức quá, bước xuống lừa, đứng giữa đường đi, đưa tay đẩy (thôi) rồi gõ (xao),gõ rồi đẩy giả như đứng trước nhà bạn vậy. Ông cứ làm như thế mãi mà khôngthấy phải dùng chữ nào.Hàn Dũ vì can vua nên bị giáng chức tại triều ra làm thứ sử ở Triều Châu. Buồncho thân thế, thấy trăng thanh gió mát nên cũng thong thả dạo chơi. Xa xa thấymột nhà sư đứng bên con lừa, tay lúc đưa tới đưa lui, lúc đưa qua đưa lại nhưthằng điên thì rất lấy làm lạ. Hàn lần bước đến gần lên tiếng, nhà sư mới giựt mìnhngừng lạị Hàn Dũ hỏi thì Giả Đảo thuật lại sự tình. Hàn bật cười và bàn: Nêndùng chữ Xao (gõ) là đúng hơn.Giả Đảo đồng ý nên câu Tăng thôi nguyệt hạ môn đổi ra Tăng xao nguyệt hạmôn.Hai tiếng thôi xao, trong văn chương ngày nay để chỉ là chọn chữ làm văn thơ.Đây cũng là một gương sáng cho những người làm thơ, làm văn phải chọn chữ choxác đáng, thích hợp. Chớ không được dùng từ ngữ ẩu!Ta cũng có thành ngữ: Nghĩ ra một chữ rụng mấy sợi râu, cũng đồng một ýnghĩa như trên. Giả Đảo lại có một bài thơ:Nhị cú tam niên đắc,Ngâm thành son lệ lưu.Tri âm như bất thưởng,Qui ngọa cố sơn thu.Dưới đây là bản dịch của Hoài Nam Tử:Ba năm được hai câu,Ngâm lên giọt lệ trào,Tri âm bằng chẳng hiểu,Về ẩn chốn non cao.Tái ông thất mãTái ông thất mã là ông già ở biên giới mất ngựa.Sách của Hoài Nam Tử có chép:Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ)có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chiabuồn. Ông lão nói:- Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy, biết đâu!Cách mấy tháng, con ngựa trở về lại quyến thêm một con ngựa hay tốt. Nhữngngười quen thuộc kéo đến xem ngựa và chúc mừng. Ông lão nói:- Được ngựa thế mà họa cho tôi đấy, biết đâu!Từ khi được ngựa hay tốt, con ông lão thích cưỡi. Chẳng may té què chân. Ngườiquen thuộc đều đến hỏi thăm, chia buồn. Ông lão nói:- Con què thế mà phúc cho tôi đấy, biết đâu!Cách một năm có giặc Hồ. Nhà vua bắt lính đi đánh giặc. Quân lính mười ngườichết đến chín. Chỉ con ông lão vì què, không phải đi lính mà cho con vẫn họp nhau.Tái ông thất mã trở nên một thành ngữ để chỉ sự họa, phúc xoay vần, khó biếttrước được. Trong cái phúc thường khi có cái họa; trong cái họa lại có cái phúc.Cổ ngữ cũng có câu: Họa tùng phúc sở ỷ, phúc tùng họa sở phục.Sách của Úc Ly Tử cũng có chép:Một người nhà quê trải cỏ phơi ở chân giậu. Hôm sau ra vơ cỏ, nghe tiếng kêutích tích, lật lên xem thì bắt ngay được một con trĩ.Anh ta thấy thế lại vẫn để cỏ ở đấy, có ý mong ngày mai lại được con trĩ nữa. Maira, lắng tai nghe tiếng tích tích như hôm trước, bụng mừng thầm. Nhưng vừa bớicỏ lên thì ra một con rắn cắn ngay vào tay làm anh ta bị thương rồi chết.Úc Ly Tử nói: Trong thiên hạ có cái phúc không tưởng được thế mà may đượcthế; cũng có cái họa không ngờ đến thế mà xảy ra thế.Trong một bài thơ của nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng có câu:Kìa tụ tán chẳng qua là tiễn biệt,Ngựa tái ông họa phước biết về đâu. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thôi xao Thôi xaoThôi là đẩy.Xao là gõ.Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thongthả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn. Cảnh vắng, trăng thanh,chim đậu trên cành cây bên bến nước, bóng người chiếu xuống mặt nước đầm, sưthấy lòng thơ lai láng, tức cảnh ngâm:Điểu túc trì biên thọ.Tăng thôi (xao) nguyệt hạ môn.Độc hành đàm để ảnh,Sác tức thụ biên thân.Tạm dịch:Chim đỗ cây bến nước,Sư đẩy (gõ) cửa dưới trăng.Mình đi bóng chiếu xuống,Tựa cây mà thở than.Giả Đảo ngâm đi ngâm lại, nhận thấy chữ thôi trong câu Tăng thôi nguyệt hạmôn không được ổn, nên đổi lại xao. Nhưng cũng không vừa ý. Ông đọc thôirồi lại xao, lại đọc xao rồi đọc thôi. Rốt cuộc ông phân vân không biết dùngchữ nào cho thích hợp.Ông tức quá, bước xuống lừa, đứng giữa đường đi, đưa tay đẩy (thôi) rồi gõ (xao),gõ rồi đẩy giả như đứng trước nhà bạn vậy. Ông cứ làm như thế mãi mà khôngthấy phải dùng chữ nào.Hàn Dũ vì can vua nên bị giáng chức tại triều ra làm thứ sử ở Triều Châu. Buồncho thân thế, thấy trăng thanh gió mát nên cũng thong thả dạo chơi. Xa xa thấymột nhà sư đứng bên con lừa, tay lúc đưa tới đưa lui, lúc đưa qua đưa lại nhưthằng điên thì rất lấy làm lạ. Hàn lần bước đến gần lên tiếng, nhà sư mới giựt mìnhngừng lạị Hàn Dũ hỏi thì Giả Đảo thuật lại sự tình. Hàn bật cười và bàn: Nêndùng chữ Xao (gõ) là đúng hơn.Giả Đảo đồng ý nên câu Tăng thôi nguyệt hạ môn đổi ra Tăng xao nguyệt hạmôn.Hai tiếng thôi xao, trong văn chương ngày nay để chỉ là chọn chữ làm văn thơ.Đây cũng là một gương sáng cho những người làm thơ, làm văn phải chọn chữ choxác đáng, thích hợp. Chớ không được dùng từ ngữ ẩu!Ta cũng có thành ngữ: Nghĩ ra một chữ rụng mấy sợi râu, cũng đồng một ýnghĩa như trên. Giả Đảo lại có một bài thơ:Nhị cú tam niên đắc,Ngâm thành son lệ lưu.Tri âm như bất thưởng,Qui ngọa cố sơn thu.Dưới đây là bản dịch của Hoài Nam Tử:Ba năm được hai câu,Ngâm lên giọt lệ trào,Tri âm bằng chẳng hiểu,Về ẩn chốn non cao.Tái ông thất mãTái ông thất mã là ông già ở biên giới mất ngựa.Sách của Hoài Nam Tử có chép:Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ)có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chiabuồn. Ông lão nói:- Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy, biết đâu!Cách mấy tháng, con ngựa trở về lại quyến thêm một con ngựa hay tốt. Nhữngngười quen thuộc kéo đến xem ngựa và chúc mừng. Ông lão nói:- Được ngựa thế mà họa cho tôi đấy, biết đâu!Từ khi được ngựa hay tốt, con ông lão thích cưỡi. Chẳng may té què chân. Ngườiquen thuộc đều đến hỏi thăm, chia buồn. Ông lão nói:- Con què thế mà phúc cho tôi đấy, biết đâu!Cách một năm có giặc Hồ. Nhà vua bắt lính đi đánh giặc. Quân lính mười ngườichết đến chín. Chỉ con ông lão vì què, không phải đi lính mà cho con vẫn họp nhau.Tái ông thất mã trở nên một thành ngữ để chỉ sự họa, phúc xoay vần, khó biếttrước được. Trong cái phúc thường khi có cái họa; trong cái họa lại có cái phúc.Cổ ngữ cũng có câu: Họa tùng phúc sở ỷ, phúc tùng họa sở phục.Sách của Úc Ly Tử cũng có chép:Một người nhà quê trải cỏ phơi ở chân giậu. Hôm sau ra vơ cỏ, nghe tiếng kêutích tích, lật lên xem thì bắt ngay được một con trĩ.Anh ta thấy thế lại vẫn để cỏ ở đấy, có ý mong ngày mai lại được con trĩ nữa. Maira, lắng tai nghe tiếng tích tích như hôm trước, bụng mừng thầm. Nhưng vừa bớicỏ lên thì ra một con rắn cắn ngay vào tay làm anh ta bị thương rồi chết.Úc Ly Tử nói: Trong thiên hạ có cái phúc không tưởng được thế mà may đượcthế; cũng có cái họa không ngờ đến thế mà xảy ra thế.Trong một bài thơ của nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng có câu:Kìa tụ tán chẳng qua là tiễn biệt,Ngựa tái ông họa phước biết về đâu. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
truyện ngụ ngôn truyện lịch sử truyện thời cổ truyện hay chọn lọc truyện cổ tíchGợi ý tài liệu liên quan:
-
Truyện Quyền của người biểu diễn
35 trang 205 0 0 -
3 trang 184 0 0
-
Tìm hiểu về Nguyễn Hữu Chỉnh: Phần 2
120 trang 133 0 0 -
158 trang 75 0 0
-
15 trang 72 0 0
-
Tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa (Tập 1): Phần 1
212 trang 65 0 0 -
9 bí quyết giữ gìn hạnh phúc gia đình
3 trang 62 0 0 -
219 trang 59 0 0
-
5 trang 59 0 0
-
5 trang 56 0 0