Danh mục

Thực hành quản lý đất bền vững trong các hệ thống canh tác ngô và sắn trên đất dốc vùng Tây Bắc Việt Nam

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 276.36 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ngô và sắn là hai cây trồng chính, quan trọng đối với vùng miền núi phía Bắc nói chung và Tây Bắc nói riêng. Tổng diện tích ngô của miền núi phía Bắc đứng đầu và diện tích sắn đứng thứ hai cả nước, nhưng năng suất của cả 2 loại cây trồng này lại thấp hơn so với trung bình cả nước. Nguyên nhân chính làm cho năng suất ngô và sắn thấp, không ổn định là do tập quán canh tác độc canh và thói quen dọn, đốt nương trước khi gieo trồng của nông dân, làm cho đất canh tác bị xói mòn nghiêm trọng; Trong khi đó, nhu cầu thị trường về nguyên liệu sắn và ngô làm diện tích sản xuất hai cây này tăng nhanh trong mấy thập kỷ qua. Để góp phần khắc phục thực trạng này, trong những năm qua Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tại địa phương cũng như với các tổ chức quốc tế như ACIAR, CIAT, CIRAD và ICRAF nghiên cứu và thúc đẩy ứng dụng các kỹ thuật quản lý đất bền vững phù hợp với điều kiện cụ thể của các địa phương vùng Tây Bắc.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thực hành quản lý đất bền vững trong các hệ thống canh tác ngô và sắn trên đất dốc vùng Tây Bắc Việt Nam Chủ đề 2: Các hệ thống canh tác bền vững Thực hành quản lý đất bền vững trong các hệ thống canh tác ngô và sắn trên đất dốc vùng Tây Bắc Việt Nam Đỗ Trọng Hiếu, Lê Việt Dũng, Phan Huy Chương, Nguyễn Tiến Sinh, Nguyễn Văn Chung và Nguyễn Thanh Hải Cơ quan Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc HỘI THẢO VỀ PHÁT TRIỂN TÂY BẮC Tác giả đại diện hieudt.nomafsi@mard.gov.vn Từ khoá Tây Bắc, quản lý đất, nông nghiệp bảo tồn, xói mòn Đặt vấn đề Ngô và sắn là hai cây trồng chính, quan trọng đối với vùng miền núi phía Bắc nói chung và Tây Bắc nói riêng. Tổng diện tích ngô của miền núi phía 106 Bắc đứng đầu và diện tích sắn đứng thứ hai cả nước, nhưng năng suất của cả 2 loại cây trồng này lại thấp hơn so với trung bình cả nước. Nguyên nhân chính làm cho năng suất ngô và sắn thấp, không ổn định là do tập quán canh tác độc canh và thói quen dọn, đốt nương trước khi gieo trồng của nông dân, làm cho đất canh tác bị xói mòn nghiêm trọng; Trong khi đó, nhu cầu thị trường về nguyên liệu sắn và ngô làm diện tích sản xuất hai cây này tăng nhanh trong mấy thập kỷ qua. Để góp phần khắc phục thực trạng này, trong những năm qua Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tại địa phương cũng như với các tổ chức quốc tế như ACIAR, CIAT, CIRAD và ICRAF nghiên cứu và thúc đẩy ứng dụng các kỹ thuật quản lý đất bền vững phù hợp với điều kiện cụ thể của các địa phương vùng Tây Bắc. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu có sự tham gia được sử dụng. Những nông hộ phù hợp được lựa chọn để tham gia thực hiện thí nghiệm ngay trên ruộng nương của họ với sự hướng dẫn của cán bộ nghiên cứu và khuyến nông tại địa phương. Các nông dân này tham gia thực hiện tất cả các khâu, từ lên kế hoạch tới triển khai, theo dõi thí nghiệm cũng như thu hoạch và tính toán hiệu quả kinh tế. Ngoài ra, các buổi tham quan, hội thảo đầu bờ cũng được tổ chức để nông dân, cán bộ địa phương và cán bộ nghiên Chủ đề 2: Các hệ thống canh tác bền vững cứu cùng quan sát, thảo luận đánh giá tác dụng của các kỹ thuật cũng như những khó khăn mà người dân sẽ gặp phải khi ứng dụng kỹ thuật. Việc thúc đẩy mở rộng ứng dụng kỹ thuật cũng được thực hiện thông qua tổ chức các lớp học trên đồng ruộng cho nông dân và phát triển các mạng lưới nông dân thực hành canh tác bền vững. Bằng việc gắn kết các hoạt động này với các chương trình, dự án của địa phương nhiều nông dân đã được hỗ trợ để ứng dụng kỹ thuật quả lý đất bền vững cho ngô và sắn trên đất dốc. Kết quả nghiên cứu và thảo luận NÚI CƠ HỘI CHO PHÁT TRIỂN Bốn thực hành canh tác quản lý đất bền vững đã được thiết kế, cải tiến, đánh giá và phổ biến cho nông dân, bao gồm làm đất tối thiểu, trồng xen với các loại cây họ đậu, trồng băng cỏ theo đường đồng mức và tạo tiểu bậc thang. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các thực hành này có thể giảm lượng đất xói mòn 50-90% (Bảng 1) và cải thiện chất lượng đất (Bảng 2). Đối với ngô ở Văn Chấn (Yên Bái), các chỉ số như pH, OM, P2O5 và K2O tăng lần lượt là 12,59%; 7,36%; 262,04% và 89,08%, trong khi lượng nhôm di động giảm 107 từ 9,01 me/100g xuống còn 2,57 kể sau ba năm áp dụng các kỹ thuật này. Nhờ đó, năng suất của ngô và sắn tăng 15-50% (Bảng 3). Tuy vậy, nông dân gặp nhiều khó khăn trong việc ứng dụng các thực hành này. Các khó khăn chính bao gồm yêu cầu đầu tư đầu cao hơn (đặc biệt là về công lao động), sâu bệnh diễn biến phức tạp hơn (đặc biệt khi kỹ thuật che phủ bề mặt đất hoặc trồng xen chỉ được áp dụng ở quy mô nhỏ), và thiếu vật liệu che phủ bề mặt đất. Bằng việc liên kết với các chương trình, dự án của địa phương chúng tôi đã giúp nông dân vượt qua những khó khăn này để tiếp nhận và ứng dụng một số thực hành quản lý đất bền vững. Kỹ thuật làm đất tối thiểu hiện được hầu hết nông hộ tại huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, và tại xã Chiềng Hắc, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La ứng dụng cho ngô trên đất dốc. Kỹ thuật trồng băng cỏ theo đường đồng mức và kỹ thuật trồng xen các loại cây họ đậu cũng đã được ứng dụng cho khoảng 7.000 ha sắn tại huyện Văn Yên và Yên Bình, tỉnh Yên Bái và cho một số diện tích ngô trên đất dốc tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Do yêu cầu đầu tư về công lao động cao trong việc kiến thiết và duy trì tiểu bậc thang nên thực hành này chưa được người dân đón nhận cho ngô và sắn. Chủ đề 2: Các hệ thống canh tác bền vững Kết luận Việc ứng dụng 4 thực hành nêu trên (làm đất tối thiểu, trồng xen các loại cây họ đậu, trồng ...

Tài liệu được xem nhiều: