Thông tin tài liệu:
Thuế nhập khẩu Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Thuế nhập khẩu là một loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài trong quá trình nhập khẩu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuế nhập khẩu Thuế nhập khẩuBách khoa toàn thư mở WikipediaThuế nhập khẩu là một loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổđánh vào hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngo ài trong quá trình nhậpkhẩu. Khi phương tiện vận tải (tàu thủy, máy bay, phương tiện vận tảiđường bộ hay đường sắt) đ ến cửa khẩu biên giới (cảng hàng không quốctế, cảng sông quốc tế hay cảng biển quốc tế, cửa khẩu biên giới bộ) thìcác công chức hải quan sẽ tiến hành kiểm tra hàng hóa so với khai báotrong tờ khai hải quan đồng thời tính số thuế nhập khẩu phải thu theo cáccông thức tính thuế nhập khẩu đã quy định trước. Về mặt nguyên tắc,thuế nhập khẩu phải đ ược nộp trước khi thông quan để nhà nhập khẩu cóthể đ ưa mặt hàng nhập khẩu vào lưu thông trong nội địa, trừ khi có cácchính sách ân hạn thuế hay có bảo lãnh nộp thuế, nên đây có thể coi làmột trong những loại thuế dễ thunhất, và chi phí để thu thuế nhậpkhẩu là khá nhỏ.Lịch sửTrong thời cổ đại và trung cổ , thuếnhập khẩu còn được các chínhquyền địa phương thu, nhưng hiệnnay điều này là rất hiếm và thôngthường nó được nhà nước giaocho một tổ chức nhà nước chuyêntrách về thuế xuất-nhập khẩu làhải quan thực hiện công việc kiểmtra, tính và thu thuế. Tại một số quốc gia, cơ quan chức năng khi tính thuếnhập khẩu cũng tính luôn cả thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với mặt hàngnhập khẩu đó, mặc dù thuế giá trị gia tăng về nguyên lý chỉ được đánhkhi hàng hóa tham gia lưu thông. Một số quốc gia có chính sách hoànthuế nhập khẩu cùng thuế VAT khi các mặt hàng nhập khẩu được sửdụng vào sản xuất hàng xuất khẩu.Trong thời đại ngày nay, các chính sách về thương mại, thuế và thuế quan(trong đó có thuế nhập khẩu) thường được xếp cùng nhau do ảnh hưởngchung của chúng đối với các chính sách công nghiệp , chính sách nôngnghiệp và chính sách đầu tư. Các khối thương mại là nhóm các quốc gialiên minh thỏa thuận giảm thiểu hay loại trừ thuế quan đối với thươngmại trong khối, cũng như khả năng áp đặt thuế quan có hiệu quả lên hàngnhập khẩu từ ngoài khối. Liên minh hải quan của khối thường có biểuthuế quan ngo ài chung, và theo các quy định đã thỏa thuận thì các quốcgia thành viên chia sẻ các khoản thu nhập từ thuế quan đối với hàng hóanhập khẩu vào trong khối.Buôn lậu trong lĩnh vực nhập khẩu là hành vi mà một số tổ chức, cá nhânthực hiện trái luật để trốn thuế nhập khẩu.Mục đíchThuế nhập khẩu theo truyền thống được đưa ra chủ yếu để tăng thu chongân sách, tuy nhiên nó cũng có thể để: Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng thay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại. Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng phá giá lên tới mức giá chung của thị trường. Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác đánh thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là trong các cuộc chiến tranh thương mại. Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nông nghiệp giống như các chính sách về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sách nông nghiệp chung của họ. Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thể cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế. Không khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng có thể bị coi là xa xỉ phẩm hay đi ngược lại các truyền thống văn hóa dân tộc v.v- cơ sở cho các đàm phán thương mại như thực hiện các ưu đãi hay là trảđũa thương mại như đ ã nói ở trên vì nó có tính minh bạch và dễ d àngthực hiện.Phân loạiTheo phương thức tính thuế, có các kiểu thuế quan như sau: Thuế quan theo đơn giá hàng (ad valorem tariff): Là một tỷ lệ phần trăm nào đó của mặt hàng, chẳng hạn 10% trên giá CIF của hàng nhập khẩu, được gọi là thuế suất thuế nhập khẩu. Đôi khi ở đây cũng có vấn đề do giá cả trên thị trường quốc tế của hàng hóa giảm xuống thì thuế nhập khẩu cũng giảm theo và các ngành sản xuất trong nước trở thành dễ bị thương tổn hơn trong cạnh tranh. Ngược lại, khi giá hàng hóa tăng lên trên thị trường quốc tế thì thuế nhập khẩu cũng tăng lên, nhưng khi đó thì sản xuất nội địa của mặt hàng đó thông thường cũng ít quan tâm đến việc bảo hộ khi giá cả là cao hơn. Bên cạnh đó, ở đây còn có vấn đề chuyển dịch giá khi mà các tổ chức nhập khẩu khai báo giá/giá trị của mặt hàng mà họ đang kinh doanh thấp hơn nhiều so với giá thị trường, nhằm mục đích giảm nghĩa vụ thuế tổng thể. Thuế quan theo trọng lượng (specific tariff): Được tính theo trọng lượng của mặt hàng, chẳng hạn $5 trên 1 tấn. Kiểu tính thuế nhập khẩu này có thể là khó khăn hơn trong việc quyết định số lượng tiền thuế phải nộp, do nó cần sự cập nhật thường xuyên vì các thay đổi trên thị trường hay vì lạm phát.Hiện nay, nói chung hải quan thực hiện tính thuế nhập khẩu theo kiểuthuế theo đơn giá hàng là chủ yếu.Theo m ục đích đánh thuế, có các kiểu thuế quan sau: Thuế quan tăng thu ngân sách: Là một tập hợp các mức thuế suất được đưa ra mà mục đích chính là làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, còn mục đích bảo hộ cho sản xuất trong nước chỉ là thứ yếu. Chẳng hạn thuế quan mà một quốc gia không trồng cũng như không chế biến cà phê đánh vào cà phê nhập khẩu có mục đích chủ yếu là tăng thu cho ngân sách. Thuế q uan bảo hộ: Đ ược đưa ra với mục đích làm tăng giá một cách nhân tạo đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh từ nước ngoài (Xem, thêm các bài Suất hiệu quả của bảo hộ và Thuế chống phá giá). Chẳng hạn, một thuế suất 20% trên giá trị máy móc nhập khẩu với giá nhập khẩu của chiếc máy là 2.000.000 VNĐ sẽ cho giá trị của nó sau thuế là 2.400.000 VNĐ. G ...