Danh mục

Thuốc bôi ngoài da - Dùng cho đúng

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 173.35 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thuốc chống nấm: Hiện nay, rất nhiều loại thuốc chống nấm bôi ngoài da có sẵn trên thị trường nhưng hiệu quả và cách sử dụng của chúng không hoàn toàn giống nhau. Nystatin, miconazole đặc biệt hiệu quả trong điều trị các trường hợp nhiễm nấm men (như Candida) nhưng không tác dụng đối với nấm sợi. Clotrimazole và ketoconazole có phổ tác dụng khá rộng so với 2 loại thuốc trên nhưng kém hơn so với các chế phẩm mới như terbinafine, ciclopirox olamine và butenafine. Các thuốc chống nấm bôi tại chỗ thường được sử dụng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc bôi ngoài da - Dùng cho đúng Thuốc bôi ngoài da - Dùng cho đúng Thuốc chống nấm: Hiện nay, rất nhiều loại thuốc chống nấm bôi ngoài dacó sẵn trên thị trường nhưng hiệu quả và cách sử dụng của chúng không hoàn toàngiống nhau. Nystatin, miconazole đặc biệt hiệu quả trong điều trị các trường hợpnhiễm nấm men (như Candida) nhưng không tác dụng đối với nấm sợi.Clotrimazole và ketoconazole có phổ tác dụng khá rộng so với 2 loại thuốc trênnhưng kém hơn so với các chế phẩm mới như terbinafine, ciclopirox olamine vàbutenafine. Các thuốc chống nấm bôi tại chỗ thường được sử dụng trong điều trịcác trường hợp nhiễm nấm nông như lang ben, hắc lào, hăm kẽ, nấm móng, nấmda đầu... Cần lưu ý trong các trường hợp nấm da đầu và nấm móng, thuốc chốngnấm bôi tại chỗ thường không đủ tác dụng mà phải phối hợp thêm đường uống.Hiệu quả của các thuốc chống nấm bôi tại chỗ thường đạt được sau dùng thuốc ítnhất 2 tuần, trừ trường hợp lang ben và hắc lào có thể thu được hiệu quả sau vàingày. Nấm kẽ và nấm bàn chân ở các vận động viên điền kinh thường gây ra do độẩm tại chỗ quá cao, do đó, việc điều trị phải phối hợp giữa thuốc chống nấm vớicác biện pháp chống ẩm tại chỗ. Nếu có trợt loét do bội nhiễm vi khuẩn cần phốihợp thêm với kháng sinh. Bên cạnh các chỉ định trên, thuốc chống nấm bôi tại chỗcòn được chỉ định trong điều trị viêm da dầu. Mặc dù cơ chế của bệnh còn chưađược biết rõ nhưng việc dùng các thuốc chống nấm bôi như ketoconazole vàciclopirox olamine giúp giảm rõ rệt tình trạng viêm và đóng vảy. Hãy cẩn trọng khi dùng thuốc bôi ngoài da. Kháng sinh: Mặc dù có tới hàng trăm chế phẩm kháng sinh khác nhau đãđược bào chế và đưa vào sử dụng nhưng rất ít trong này có thể dùng được ngoàida. Thuốc mỡ erythromycin và clindamycin thường được sử dụng trong điều trịtrứng cá mủ và viêm nang lông, trong khi đó, các loại mỡ mupirocin, polymyxin,bacitracin và neomycin thường được dùng trong điều trị các nhiễm trùng ngoài danhư chốc... Thuốc mỡ kháng sinh cũng có tác dụng tốt trong dự phòng nhiễmtrùng các vết thương ngoài da. Viêm da tiếp xúc là tác dụng phụ thường gặp vớicác loại mỡ chứa polymyxin, bacitracin và neomycin, do đó nên tránh sử dụng cácloại thuốc này nếu có thuốc thay thế thích hợp. Một số trường hợp dị ứng nặngnhư hội chứng Stevens - Johnson và Lyell do các loại kháng sinh bôi tại chỗ đãđược ghi nhận. Corticoid: Các loại corticoid bôi tại chỗ bắt đầu được sử dụng trong thực tếtừ năm 1960, chủ yếu trong điều trị các bệnh lý da do viêm như chàm cơ địa, viêmda dầu, viêm da tiếp xúc, tổ đỉa... Một số bệnh lý ngoài da khác như u lympho thểda, lupus ban đỏ, vảy nến, liken phẳng... cũng có đáp ứng tốt với các thuốc này.Tác dụng phụ nguy hiểm nhất của corticoid bôi tại chỗ là gây teo da. Biến chứngnày thường xảy ra sớm với các loại corticoid tác dụng mạnh như clobetasolpropionate, fluocinolone acetonide... nhưng cũng có thể gặp với các loại tác dụngyếu nếu sử dụng kéo dài và liên tục. Mặt, nếp gấp và các vùng da mỏng thường bịteo nhanh nhất trong khi lòng bàn tay, bàn chân thường teo da chậm nhất. Trẻ emcó nguy cơ teo da cao nhất, dùng phối hợp với corticoid toàn thân hoặc tiếp xúcnhiều với ánh nắng sau thoa thuốc cũng làm tăng nguy cơ teo da. Biểu hiện của teoda bao gồm các vết bầm tím, da trở nên bóng và có các khía. Các tác dụng khácthường gặp do corticoid bôi tại chỗ bao gồm rối loạn sắc tố da, rậm lông, nổi mụntrứng cá, làm chậm liền vết thương... Corticoid dùng kéo dài tại các vùng da quanhmắt còn có thể gây ra hoặc làm nặng bệnh đục thủy tinh thể và thiên đầu thống.Ngoài ra, các loại tác dụng mạnh nếu dùng kéo dài hoặc trên diện rộng cũng có thểgây ức chế tuyến thượng thận. Trong một số ít trường hợp, corticoid bôi tại chỗcòn có thể gây ra viêm da tiếp xúc, mặc dù các thuốc này có tác dụng chống dịứng rất mạnh. Tác dụng phụ của corticoid bôi phụ thuộc chủ yếu vào cường độ tác dụngvà thời gian sử dụng thuốc. Trong khi đó, tác dụng điều trị của các thuốc này tỷ lệthuận với nguy cơ gây tác dụng phụ của thuốc. Các biệt dược khác nhau của cùngmột hoạt chất với cùng một hàm lượng cũng có thể có hiệu quả điều trị và nguy cơgây tác dụng phụ không giống nhau. Ngoài ra, việc tăng hàm lượng của một hoạtchất corticoid trong thuốc bôi không làm tăng đáng kể hiệu quả điều trị của thuốc,ví dụ, tác dụng chống viêm của mỡ triamcinolone 0,1% không lớn hơn đáng kể sovới mỡ triamcinolone 0,025%. Một số điều cần lưu ý trong việc lựa chọn corticoid bôi: Do corticoid bôi tạichỗ có nhiều nguy cơ gây tác dụng phụ nên cần chẩn đoán xác định chính xácbệnh trước khi đưa ra quyết định sử dụng các thuốc này. Việc lựa chọn corticoidbôi cần cân đối giữa hiệu quả điều trị với nguy cơ tác dụng phụ. Điều trị các bệnhnhư liken phẳng, lupus ban đỏ ngoài da thường đòi hỏi các thuốc corticoid bôi tácdụng mạnh, do các bệnh lý này thư ...

Tài liệu được xem nhiều: