Thuốc chống ho có gây nguy hiểm?Bài 1: Các loại thuốc chống ho Ho là một biểu hiện thông thường, bởi lẽ mỗi người trong chúng ta đều có thể bị ho nhiều lần trong một năm. Nhưng không phải vì thế mà thuốc ho, loại thuốc vẫn được nhiều người coi như những thuốc thông thường tự mua tự uống, có biên độ an toàn vô hạn. Trên thực tế, nếu không cẩn trọng, chúng ta có thể gặp nguy hiểm. Ho tốt hay không tốt? Ho là một phản xạ đẩy hơi mạnh từ trong phổi qua miệng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc chống ho có gây nguy hiểm? Thuốc chống ho có gây nguy hiểm?Bài 1: Các loại thuốc chống hoHo là một biểu hiện thông thường, bởi lẽ mỗi người trong chúng ta đều có thể bị ho nhiềulần trong một năm. Nhưng không phải vì thế mà thuốc ho, loại thuốc vẫn được nhiềungười coi như những thuốc thông thường tự mua tự uống, có biên độ an toàn vô hạn.Trên thực tế, nếu không cẩn trọng, chúng ta có thể gặp nguy hiểm.Ho tốt hay không tốt?Ho là một phản xạ đẩy hơi mạnh từ trong phổi qua miệng ra ngoài. Đây là một phản xạ tựnhiên của cơ thể nói chung và của đường hô hấp nói riêng. Nhưng chúng ta vẫn thường“sợ” ho, bởi nó như là một biểu hiện rõ rệt của những bệnh liên quan đến hô hấp. Và bởihầu như những người nào bị bệnh hô hấp cũng đều thấy ho. Chính vì thế mà ho luôn luônđược coi là mục tiêu khống chế hàng đầu của bệnh nhân đi khám và cũng là một trongcác mục tiêu điều trị của bác sĩ.Tuy nhiên, có một điều thú vị ở đây, ho hoàn toàn không phải là tệ hại đến mức phải triệttiêu. Thậm chí còn có thể nói rằng, ho, về đúng nghĩa là một phản xạ bảo vệ hữu hiệu củađường hô hấp. Bởi ngoài chức năng làm ấm và làm ẩm không khí, đường hô hấp còn thựchiện chức năng lưu thông khí thở đi vào trong phổi. Muốn thực hiện được chức năngthiên bẩm này, chúng cần phải được thông thoáng, nghĩa là không bị chít hẹp, cản trở haytắc nghẽn. Có như vậy không khí mới dễ dàng đi ra đi vào.Nhưng nếu chẳng may gặp phải một sự cố nào đó, chẳng hạn như hạt bụi lớn hay cụcđờm to trong phế quản, ngay lập tức đường khí đạo sẽ bị cản trở. Chính điều này đã kíchthích tạo nên một phản xạ ho đẩy hơi mạnh vào vật cản. Sự đẩy hơi này mạnh đến nỗi,vật cản có thể bị bật ra ngoài dù nó có ở sâu đến mấy đi chăng nữa. Như thế là, trênnguyên tắc ho chính là giúp đường thở lấy lại sự thông thoáng cần thiết của nó. Nếukhông có phản xạ ho và các cấu trúc đặc thù khác, có lẽ đường thở đã bị bít đầy bụi khicơ thể mới đến tuổi 30.Ở một mức độ nhất định, ho quả thực là tốt vì giúp đường thở của chúng ta thông thoángvà sạch sẽ. Nhưng nếu ở một mức độ quá mức thì lại gây ra nhiều tác hại. Các tác hại cóthể kể ra đây là mệt, mất ngủ, rát họng, phù nề dây thanh âm. Nhưng có lẽ tác hại khôngdễ chịu nhất chính là làm vỡ các mao mạch gây chảy máu hô hấp, nhất là những maomạch đang bị phù nề hay bị tổn thương của một quá trình viêm bệnh lý. Thật đáng ngại làtrong các bệnh lý đường hô hấp, ho lại rất dễ phản ứng quá mức cần thiết. Lúc này cầnkhống chế ho và các thuốc chống ho ra đời. Lạm dụng thuốc chống ho có thể gây nguy hiểm.Có bao nhiêu loại thuốc chống ho?Để thực hiện phản xạ ho cần 5 thành phần tối thiết bao gồm: thụ cảm thể ho, dây thầnkinh hướng tâm, trung khu điều khiển ho, dây thần kinh ly tâm và các cơ hô hấp. Trongcác bộ phận này, các thụ cảm thể có vai trò nhận cảm khi nào đường thở bị tắc nghẽn đểtạo ra những xung động thần kinh khởi động một quá trình gây ho và trung khu điềukhiển ho có nhiệm vụ tạo ra một phản xạ ho khi cần thiết. Đây là hai bộ phận có ý nghĩanhất trong cơ chế gây bệnh và cũng có ý nghĩa nhất trong điều trị lâm sàng.Để nhằm thực hiện khống chế ho hiệu quả về mặt điều trị, hiện nay, tất cả các thuốcchống ho đều “đánh” vào một trong hai bộ phận: các thụ cảm thể ho và các trung khuđiều khiển ho. Những thuốc tác động vào các thụ cảm thể ho được gọi là những thuốc ứcchế ho ngoại biên, bản chất là gây tê đầu dây thần kinh nhận cảm làm chúng không cònkhả năng nhận cảm được nữa. Do đó, phản xạ ho không được khởi động. Đại diện củanhóm này có benzonatat.Còn các thuốc chống ho tác động vào trung khu ho thì được gọi là các thuốc ức chế hotrung ương vì nó ức chế trung khu ho ở não (chính xác là hành não) để không tạo ra mộtphản ho nào. Lúc này, mặc dù cơ quan thụ cảm liên tục gửi những xung động ho về trungtâm nhưng trung khu trung ương không hề tiếp nhận và không ra một mệnh lệnh ho nàođáp ứng lại. Đại diện của nhóm này có codein, dextromethorphan, alimemazine (theraten)(những thuốc này hay sử dụng), pholcodin, clocinizin…Xét về phương diện điều trị, những thuốc ức chế ho trung ương có tác dụng kiểm soát homạnh hơn những thuốc ức chế ho ngoại vi vì nó có tác dụng ức chế hoàn toàn trung khuđầu não của ho. Do vậy nó bất hoạt và kiểm soát được tất cả mọi loại ho, ngay cả khi đólà những cơn ho mạnh nhất, làm triệt tiêu hoàn toàn những cơn ho này. Trong khi đó, ởnhững trường hợp nặng, các thuốc ức chế ho ngoại vi không thể kiểm soát được các cơnho của người bệnh, vì chúng không thể bất hoạt được tất cả những xung động gây ho, đặcbiệt khi những xung động kích thích trở lên quá mạnh, nhất là những đối tượng nặng, hocó đờm, ho nhiều và ho dữ dội.Tuy nhiên, như một lẽ thông thường, thuốc ho nào càng mạnh thì chúng lại càng có nhiềuđiểm “đáng phải bàn” vì dược tính không mong muốn của nó. Sự mạnh mẽ của thuốc hoức chế trung ương không bù trừ hoá những khuyết điểm sinh ra đã có. Nó vẫn chứanhững đặc tính mà người bệnh cần phả ...