Nhuyễn xương là tình trạng giảm sự khoáng hóa calci và phospho (không đủ) của khung xương, nếu đang tăng trưởng ở tuổi ấu thơ gây biến dạng xương được gọi là còi xương, nếu ở người lớn gây nhuyễn xương.Những nguyên nhân gây bệnh Có rất nhiều nguyên nhân: rối loạn hấp thu vitamin D, khẩu phần ăn thiếu, thiếu ánh sáng; một số thuốc như thuốc trị động kinh, thuốc ngủ barbituric, hợp chất nhôm, fluorid, stidronat...; thiếu calci, phospho do khẩu phần ăn hoặc mất qua thận; do bệnh ở gan, ruột, đường mật, cắt dạ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc dùng trong bệnh nhuyễn xương Thuốc dùng trong bệnh nhuyễn xương Nhuyễn xương là tình trạng giảm sự khoáng hóa calci và phospho(không đủ) của khung xương, nếu đang tăng trưởng ở tuổi ấu thơ gây biếndạng xương được gọi là còi xương, nếu ở người lớn gây nhuyễn xương. Những nguyên nhân gây bệnh Có rất nhiều nguyên nhân: rối loạn hấp thu vitamin D, khẩu phần ăn thiếu,thiếu ánh sáng; một số thuốc như thuốc trị động kinh, thuốc ngủ barbituric, hợpchất nhôm, fluorid, stidronat...; thiếu calci, phospho do khẩu phần ăn hoặc mất quathận; do bệnh ở gan, ruột, đường mật, cắt dạ dày, do kháng vitamin D; hạ phosphomáu mạn tính; toan ống thận, bệnh Wilson; ức chế khoáng hóa; do khối u;Franconi... Thiếu vitamin D thường xảy ra ở các nước nghèo hoặc đang phát triển.Thiếu phospho hay gặp nhất do rối loạn tái hấp thu do mắc phải vì chế độ ăn hoặcnghiện rượu, do khối u mô mềm bài tiết phospho qua đường niệu. Việc giảm khoáng tùy thuộc vào tuổi và mức độ nặng nhẹ. Căn cứ để chẩn đoán: Xét nghiệm máu. Đo tỷ trọng xương. Xquang hoặc sinh thiết xương. Đặcbiệt qua xét nghiệm máu để phân biệt loãng xương hay nhuyễn xương. Loãngxương gần như không có thay đổi xét nghiệm sinh hóa. Phòng và điều trị bệnh nhuyễn xương Tùy thuộc vào nguyên nhân. Chế độ ăn thiếu vitamin: Thiếu hụt calci do không ăn đủ vitamin D, cần bổsung vitamin D. Tác dụng của chúng là duy trì nồng độ calci và phospho bìnhthường trong huyết tương, được hấp thu các chất khoáng khi ăn vào (có trong dầucá, gan cá, bơ, trứng, sữa). Dùng ergocalciferol (vitamin D2) để bù đắp và dự trữ cho cơ thể. Tiếp theolà điều trị duy trì (dài hạn). Cần bổ sung qua đường uống, có thuốc viên kết hợpsẵn như calci+vitamin D hoặc những thuốc multivitamin. Nếu kém hấp thu vitamin D cần uống liều cao làm sao đảm bảo duy trìnồng độ 25-hydroxy D huyết thanh trong giới hạn bình thường cùng với calci,đồng thời phải theo dõi 25-hydroxy D huyết thanh và calci huyết thanh, calci niệutrong 24 giờ và cứ 3-6 tháng 1 lần. Phospho là cực kỳ cần thiết cho tạo xương và chuyển hóa năng lượng tếbào. Khoảng 85% phospho có ở xương, số còn lại ở trong tế bào, chỉ có 1% ởdịch ngoại bào. Phospho tồn tại trong cơ thể ở dạng phosphat nhưng đậm độ tậptrung ở huyết thanh biểu hiện khối lượng phospho (1mg/dl phospho = 0,32mM/lphosphat). Giới hạn bình thường là 3-4,5mg/dl. Thiếu phospho do mất qua thận (còi xương kháng vitamin D) đáp ứng tốtbổ sung phosphat suốt đời và cũng phải thêm vitamin D để cải thiện giảm hấp thucalci do thiếu phosphat. Dùng thuốc qua đường tiêu hóa: ưu và nhược Các thuốc hấp thu qua đường tiêu hóa (miệng, dạ dày, ruột non, hậu môn)được sử dụng nhiều hơn cả. Đây là đường hấp thu tự nhiên và dễ sử dụng. Tuynhiên ở đường dùng này lại có một số nhược điểm như dễ bị các enzym tiêu hóaphá huỷ (làm hỏng thuốc ảnh hưởng tới kết quả điều trị bệnh) hoặc thuốc tạo phứcvới thức ăn làm chậm hấp thu. Một số thuốc còn kích ứng niêm mạc đường tiêuhóa gây viêm loét... - Thuốc dùng ngậm dưới lưỡi hấp thu qua niêm mạc miệng. Hay sử dụngnhư nifedipin (chống tăng huyết áp), nitroglycerin (chống đau thắt ngực)... Tạiđây, thuốc vào thẳng vòng tuần hoàn nên không bị dịch vị của dạ dày phá huỷ. - Đối với thuốc uống: + Tại dạ dày: nói chung thuốc ít được hấp thu do niêm mạc dạ dày ít mạchmáu, lại chứa nhiều cholesterol, thời gian thuốc lưu lại ở dạ dày không lâu. Hơnnữa độ pH của dạ dày khoảng 1 - 3, không lý tưởng cho việc hấp thu thuốc ngoạitrừ các các acid yếu, ít bị ion hóa như aspirin, phenylbutazon, barbiturat. Nếu uốngthuốc vào lúc đói (dạ dày rỗng), thuốc sẽ hấp thu nhanh hơn nhưng lại dễ bị kíchứng. + Tại ruột non: đây là nơi có diện tích hấp thu rất rộng, lại được tưới máunhiều, pH tăng dần tới trung tính và base (pH từ 6 - 8)... nên đây là nơi hấp thuthuốc chủ yếu khi uống thuốc. -Thuốc đặt trực tràng: đường đưa thuốc này được sử dụng trong nhữngtrường hợp không dùng được đường uống (do nôn, do hôn mê, hoặc ở trẻ em). Vớiđường dùng này có ưu điểm thuốc không bị enzym tiêu hóa phá huỷ, khoảng 50%thuốc hấp thu qua trực tràng sẽ qua gan, chịu chuyển hóa ban đầu nhưng nhượcđiểm là hấp thu không hoàn toàn và có thể gây kích ứng niêm mạc hậu môn.