Danh mục

Thuốc dùng trong giải độc rượu

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 191.29 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Rượu etylic (C2H5OH) sau khi uống được hấp thu vào cơ thể qua hệ tiêu hoá, sự hấp thu của rượu phần lớn xảy ra ở tá tràng và đoạn hỗng tràng của ruột non. Thời gian hấp thu của rượu phụ thuộc vào tình trạng thức ăn có trong dạ dày. Nếu dạ dày đầy thức ăn thì rượu được hấp thu chậm do thức ăn mất nhiều thời gian nằm trong dạ dày hơn so với khi dạ dày rỗng. Tương tự như vậy, các thức ăn chứa nhiều mỡ sẽ làm rượu chậm hấp thu hơn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc dùng trong giải độc rượu Thuốc dùng trong giải độc rượu Rượu etylic (C2H5OH) sau khi uống được hấp thu vào cơ thể qua hệ tiêuhoá, sự hấp thu của rượu phần lớn xảy ra ở tá tràng và đoạn hỗng tràng của ruộtnon. Thời gian hấp thu của rượu phụ thuộc vào tình trạng thức ăn có trong dạ dày. Nếu dạ dày đầy thức ăn thì rượu được hấp thu chậm do thức ăn mất nhiềuthời gian nằm trong dạ dày hơn so với khi dạ dày rỗng. Tương tự như vậy, cácthức ăn chứa nhiều mỡ sẽ làm rượu chậm hấp thu hơn so với các thức ăn chứanhiều chất bột. Rượu được hấp thụ dễ dàng qua các màng tế bào. Nồng độ củarượu cũng ảnh hưởng đến sự hấp thu của rượu. Rượu được hấp thu tối đa khi cónồng độ từ 10 - 30%. Do sự chênh lệch nồng độ mà rượu được hấp thu yếu hơnkhi có nồng độ dưới 10% và khi có nồng độ vượt quá 30%. Trong cơ thể, rượu được lan truyền đến các nội tạng qua đường máu. Rượukhuếch tán qua các màng sinh học vào các tế bào và các mô. Tốc độ lan truyền củarượu vào các mô có sự khác nhau, phụ thuộc vào sự tưới máu của các mô. Rượutập trung rất nhanh ở tim, phổi, não... nhưng rất chậm ở các mô cơ và xương. Rượu cũng khuếch tán vào không khí trong phế nang với hệ số trao đổi cao.Khoảng 5% lượng rượu uống được thải trừ nguyên vẹn bằng đường nước tiểu, mồhôi và khí thở ra. Còn 95% lượng rượu được chuyển hoá tại gan. Sau khi đạt tớiđỉnh cao, nồng độ trong máu thì nồng độ của rượu trong máu giảm dần phụ thuộcvào tốc độ chuyển hoá ở gan và bài tiết của rượu. Cấp cứu cho bệnh nhân bị ngộ độc rượu. Say rượu và giải độc rượu Say rượu được chia thành 3 mức độ: Mức độ nhẹ: Say rượu mức độ nhẹ thấy ngưỡng cảm giác giảm, rối loạnchú ý, phản ứng chậm, tư duy logic giảm sút, hiểu biết xung quanh rất khó khăn,khả năng phê phán giảm, khí sắc dao động và thường là tăng, hay nổi khùng, dễ bịkích thích, thậm chí rất hung bạo. Các triệu chứng trên thường phối hợp với rốiloạn vận động và rối loạn ngôn ngữ. Nồng độ rượu trong máu là 2%o, tính theokhối lượng cơ thể là 1-1,5 ml/kg. Khi có biểu hiện say rượu mực độ nhẹ thườngđiều trị tại nhà. Cho bệnh nhân nằm nghỉ trên giường, ủ ấm, uống nước chè phađường nóng. Nếu bệnh nhân không nằm yên, có thể cố định bệnh nhân vào giườngbằng 3 sợi dây to bản (1 tay đưa lên trên, tay kia đưa xuống dưới, 2 chân chụm vàonhau). Bệnh nhân đi vào giấc ngủ dài, sau ngủ dậy sẽ tỉnh táo. Có thể dùng thêmthuốc như sau để giúp bệnh nhân chóng tỉnh táo, hạn chế cảm giác mệt mỏi và đauđầu sau khi say rượu: vitamin B1 tiêm bắp. Các chế phẩm thay thế là ancopir,neurobion, vitamin 3B... Thời gian điều trị: 1 ngày. Mức độ trung bình: Say rượu mức độ trung bình rối loạn chú ý nặng hơn,bệnh nhân hay đãng trí, tri giác thiếu chính xác và sai thực tại. Quá trình hoạt độngtrí tuệ diễn ra với nhịp độ chậm hơn trước. Xuất hiện tư duy thiếu logic. Các hamthích cũ vượng lên đặc biệt là hoạt động tình dục. Nổi bật trong giai đoạn này làhành vi hung bạo, tấn công và thường gây gổ, đánh nhau gây nhiều phiền phứccho xung quanh. Xuất hiện các rối loạn phối hợp vận động làm cho bệnh nhân đilại loạng choạng và nói khó. Nồng độ rượu trong máu là 2-5%o, tính theo khốilượng cơ thể là 1,5-2,5ml/kg. Ở mức độ này thường điều trị tại bệnh xá. Gây nôn cho bệnh nhân bằng cáckích thích vật lý (ngoáy họng bằng lông gà, móc họng...) hoặc apomorphin. Chouống nước chè đường nóng. Cố định bệnh nhân tại giường. Dùng vitamin B1 tiêmbắp. Không được dùng thuốc an thần (aminazin), chấn tĩnh (seduxen) hoặc thuốcngủ (gardenal) vì dễ gây ức chế hô hấp. Cụ thể như sau: - Vitamin B1 tiêm bắp. Có thể thay thế vitamin B1 bằng các chế phẩm kháccó chứa vitamin B1 như ancopir, nerobion, vitamin 3B... - Vitaplex truyền tĩnh mạch 30 giọt/phút. Vitaplex có chứa vitamin B1, glucoza, điện giải nên thích hợp cho điều trịcác bệnh nhân say rượu. Thời gian điều trị: 3 ngày Mức độ nặng: Say rượu mức độ nặng được biểu hiện bằng trạng tháichoáng váng ngày càng tăng. Những giấc ngủ sâu kéo dài hơn. Trong nhiễm độcrượu nặng có thể gây ra trạng thái bán hôn mê hoặc hôn mê kèm theo các rối loạncơ thể nặng. Nhiều trường hợp cần phải rửa dạ dày, trợ tim mạch và hô hấp. Nồng độ rượu trong máu cao hơn 5%o, tính theo khối lượng cơ thể là 2,5 -3,5ml/kg. Nhưng lâm sàng là tài liệu chủ yếu đánh giá nghiện rượu vì nó tổng hợptất cả các phương pháp để đánh giá. Trường hợp say rượu nặng nên điều trị tại bệnh viện. Cố định bệnh nhântại giường, ủ ấm, rửa dạ dày, hút đờm rãi, thở ôxy. Bệnh nhân cần được truyềndịch để ổn định huyết áp, nuôi dưỡng và thải độc, cho vitamin B1. Nếu cần phảicho lợi tiểu (lasix tiêm bắp). Cần theo dõi chặt mạch, nhiệt độ, huyết áp, lượngnước tiểu, ý thức của bệnh nhân. Cụ thể như sau: - Vitamin B1 tiêm bắp. Có thể thay thế bằng các chế phẩm có chứa vitaminB1 như đã nói trên.- Piracetam tiê ...

Tài liệu được xem nhiều: