Danh mục

Thuốc gốc - Biệt dược: giá và sự lựa chọn

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 128.66 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thuốc gốc có nhiều nguồn sản xuất (số lượng không bị hạn chế, có lúc vượt quá nhu cầu, dùng yếu tố giá cạnh tranh tiêu thụ), không có chi phí nghiên cứu, ít chi phí tiếp thị nên thành phẩm có giá thấp hơn là lẽ đương nhiênĐa số thuốc được sản xuất trong nước hiện nay là thuốc gốc nên có giá thành rẻ hơn thuốc nhập ngoại.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc gốc - Biệt dược: giá và sự lựa chọn Thuốc gốc - Biệt dược: giá và sự lựa chọn Thuốc gốc có nhiều nguồn sản xuất (số lượng không bị hạn chế, có lúc vượtquá nhu cầu, dùng yếu tố giá cạnh tranh tiêu thụ), không có chi phí nghiên cứu, ítchi phí tiếp thị nên thành phẩm có giá thấp hơn là lẽ đương nhiên Đa số thuốc được sản xuất trong nước hiện nay là thuốc gốc nên có giáthành rẻ hơn thuốc nhập ngoại. Thuốc gốc là gì? Thuốc gốc (generic products) là những thuốc (sản phẩm) được sản xuất saukhi hết hạn bảo hộ bằng sáng chế độc quyền (BSCĐQ). Hết thời hạn bảo hộ tr ên,nhiều nơi có quyền sản xuất, không cần xin phép nơi sở hữu BSCĐQ. Chúng cóthể mang tên chung (không có sở hữu) hay tên riêng (có sở hữu) còn gọi là tênthương mại (trade name), biệt dược (brand name). Theo đó, thị trường có thànhphẩm từ nhiều nguồn, nên ta thay thuật ngữ thuốc gốc bằng thuật ngữ tổng quátchuẩn xác hơn dược phẩm có nhiều nguồn. Thí dụ, cefuroxim phát minh năm 1977. Khoảng 15 năm tiếp theo nằmtrong thời hạn bảo hộ BSCĐQ, được coi là thuốc mới phát minh. Sau thời hạn đó,nhiều nơi sản xuất mà không cần xin phép nơi sở hữu BSCĐQ, với các tên chungcefuroxim (nước ta); hay tên riêng như ceroxim, cefosan, zencef (Ấn Độ); kalcef(Indonesia); tafurex (Hàn Quốc). Chúng là thuốc gốc hay dược phẩm có nhiềunguồn. Vì sao giá thuốc gốc thấp hơn thuốc mới phát minh? Thuốc mới phát minh chỉ do nơi sở hữu BSCĐQ sản xuất (số lượng hạnchế). Người ta sẽ phải đầu tư vào đó các chi phí nghiên cứu và tiếp thị. Số tiền nàykhông phải nhỏ nên các sản phẩm mới này có giá thành cao. Trong khi đó thuốcgốc có nhiều nguồn sản xuất (số lượng không bị hạn chế, có lúc vượt quá nhu cầu,dùng yếu tố giá cạnh tranh tiêu thụ), không có chi phí nghiên cứu, ít chi phí tiếpthị nên thành phẩm có giá thấp hơn là lẽ đương nhiên. Một ví dụ vào những năm80, cefuroxim là thuốc mới phát minh (bd: ceftin), giá 01 viên 500mg tính ra ti ềnbây giờ khoảng 180.000đ nhưng hiện nay các thuốc chứa cefuroxim là thuốc gốc,giá 01 viên 500mg chỉ khoảng 8.000đồng (thấp hơn giá cũ 22, 5 lần). Đa số trường hợp, dùng thuốc gốc chữa được bệnh mà giá lại thấp hơnthuốc mới phát minh. Suốt thập niên 80 của thế kỷ trước, cefutoxim (phát minh1977) là thuốc mới phát minh, có giá rất cao, trong khi đó amoxicilin (phát minh1964), benzylpenicillin (phát minh 1928) đều là thuốc gốc, có giá thấp. Với nhiễmkhuẩn hô hấp, nên chọn dùng hai thuốc này (tùy giai đoạn), chỉ dùng cefuroximkhi amoxicylin không đáp ứng. Suốt thập niên 2000, gatifloxacin (biệt dượcterquin, sản xuất độc quyền từ 1999) là thuốc mới phát minh, có giá thành cao,trong khi benzylpenicilin, cephalothin, cefuroxim đều là thuốc gốc có giá thànhthấp. Với viêm phổi mắc phải cộng đồng, người lớn chọn dùng một trong 3 thuốcnày (tùy tình trạng), chỉ dùng gatifloxacin khi các thuốc gốc trên không đáp ứng. Dùng thuốc nội có giá thấp sẽ có ý nghĩa về kinh tế - xã hội là tiết kiệm chiphí, tạo điều kiện cho người có thu nhập thấp có cơ hội chữa bệnh. Như vậy thuốcgốc không chỉ có vai trò lớn trong điều trị mà còn có ý nghĩa cao về kinh tế - xãhội. Xu hướng dùng thuốc gốc hiện nay Chủ trương đúng và kết quả thực hiện Chủ trương của Bộ y tế, cũng theo đúng khuyến cáo của WHO là dùngthuốc gốc chữa bệnh. Điều này thể hiện trong việc đưa ra Danh mục thuốc thiếtyếu, Danh mục thuốc chủ yếu dùng khám chữa bệnh (DMTCY-KCB), đưa ra cácphác đồ điều trị (PĐĐT) chuẩn. Các Danh mục, Phác đồ này bao gồm chủ yếu làcác thuốc gốc. Bệnh viên nhà nước lập danh mục sử dụng nằm trong phạm vi DMTCY-KCB, dùng thuốc này cho nội trú, cấp ngoại trú BHYT theo các PĐĐT chuẩn.Như vậy về căn bản các bệnh viện nhà nước tuân thủ chủ trương dùng thuốc gốcchữa bệnh. Năm 2010 đã có 62% dân số dùng thuốc do BHYT chỉ trả. Con sốdùng thuốc gốc trong cả nước là rất lớn. Những tồn tại trong việc dùng thuốc gốc: Trong bào chế sinh dược học, hai biệt dược có cùng hoạt chất, dạng bàochế, hàm lượng chỉ được coi có giá trị chữa bệnh căn bản như nhau khi có tươngđương sinh học (bioequivalence) nghĩa là có chỉ số biểu thị sinh khả dụng(biovailability) chỉ chênh lệch nhau trong giới hạn cho phép 10%-20%. Quan niệmbào chế tiên tiến này thúc đẩy việc nâng cao chất lương thuốc. Song dựa vào đó,hãng sản xuất thường ít nói đến sự giống nhau căn bản về giá trị chữa bệnh màthổi phồng quá mức sự chênh lệch sinh khả dụng (thực ra chỉ trong giới hạn chophép) và dùng nhiều thủ thuật khác định giá cao biệt dược hãng mình, tạo ra sựchênh lệch giá quá lớn, không đáng có, giữa các biệt dược. Ví dụ: nước ta nhậpcác hoạt chất gốc đạt tiêu chuẩn, sản xuất biệt dược tại cơ sở đạt GMP, với biệtdược đi từ các hoạt chất gốc này chỉ cần thử đạt độ tan rã, độ phóng thích d ượcchất là đã có giá trị chữa bệnh căn bản như biệt dược nhập ngoại. Thế ...

Tài liệu được xem nhiều: