Bạch biến tuy không gây tổn hại nhiều về sức khỏe song ảnh hưởng đến thẩm mỹ. Hiện nay đã có nhiều thuốc, nhiều liệu pháp phối hợp điều trị, nếu dùng sớm, kiên trì, bệnh có thể ổn định trong thời gian dài. Bạch biến là da (và lông trên da) bị mất sắc tố hình thành từng đốm trắng (hay gặp ở mu bàn tay, cổ tay, lưng, cổ, mặt), hình tròn, bầu dục có rìa rõ, song có khi liên kết thành vạt loang lổ lớn, có thể cư trú ổn định, cũng có thể lan tỏa...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc trị bạch biến Thuốc trị bạch biếnBạch biến tuy không gây tổn hại nhiều vềsức khỏe song ảnh hưởng đến thẩm mỹ.Hiện nay đã có nhiều thuốc, nhiều liệu phápphối hợp điều trị, nếu dùng sớm, kiên trì,bệnh có thể ổn định trong thời gian d ài.Bạch biến là da (và lông trên da) bị mất sắctố hình thành từng đốm trắng (hay gặp ở mubàn tay, cổ tay, lưng, cổ, mặt), hình tròn,bầu dục có rìa rõ, song có khi liên kết thànhvạt loang lổ lớn, có thể cư trú ổn định, cũngcó thể lan tỏa toàn thân (chiếm tới 80% diệntích da trên cơ thể).Các thuốc và liệu pháp thường dùng:Corticoid: Là chỉ định hàng đầu của thểbạch biến cư trú. Dùng loại tác dụng nhẹ haytrung bình, có nồng độ vừa phải, dưới dạngbôi như fluocinolon 0,1%; dexamethason0,1%; triamcinolon 0,1%. Khi cần mới dùngloại mạnh như clobetap propionat 0,05%.Chỉ dùng cho người lớn không dùng cho trẻem. Thời gian dùng không quá 3 tháng, nếudùng quá thời gian này mà không đỡ thìchuyển sang dùng thuốc điều hòa miễn dịchkhác. Dùng loại mạnh, liều cao và/hoặc kéodài sẽ làm giảm sức đề kháng của da, làm dadễ nhiễm khuẩn, mỏng, giãn, teo. Sau khidùng dạng bôi, tiếp tục dùng corticoid uống(prednisolon) trong thời gian ngắn.Các chất điều hòa miễn dịch khác: gồmtacrolimus, pimecromus… có giá trị nhưnhau, có thể thay thế lẫn nhau. Chúng ứcchế canxi-thần kinh tại nơi tổn thương (cụthể là ức chế các cytokin, yếu tố gây miễndịch), đồng thời làm tăng sự hình thành sắctố, nguyên bào tố, yếu tố tế bào gốc (stemcell factor). Chúng có ưu điểm không gâygiãn, teo da.Liệu pháp PUVA: Dùng thuốc cảm thụ ánhsáng (psoralem, trimethylpsoralam) cộng vớichiếu tia cực tím hay tắm nắng. Bôipsoralem (dung dịch 0,1%) trước 15 phúthay uống trimethylpsoralam trước 1-1,5 giờ,sau đó chiếu tia cực tím hay phơi nắng chođến khi vùng da bị bệnh đỏ lên. Nếu đápứng tốt, có thể dùng dung dịch bôi trên cónồng độ tới 0,75%, tăng thời gian chiếu tiatím hay phơi nắng. Cần tránh dùng tia cựctím mạnh hay tắm nắng buổi trưa (có cườngđộ tia cực tím cao), che kín các vùng dakhác. Khi dùng liệu pháp này có thể bị khôda, ngứa, đỏ rát, phỏng nước. Người ta cũngcó thể kết hợp liệu pháp PUVA và chất điềuhòa miễn dịch. Ví dụ: bôi chất ức chế miễndịch (calcitriol), sau đó dùng liệu phápPUVA; hoặc uống chất kích thích sắc tốphát triển trước 2 giờ, kết hợp với chiếuUVA (tùy theo da người bệnh)...Chất cảm quang:gồm methylsalen,triosalen, paraminar... Chúng có tính quangđộng (photodysanisant) làm tăng sự nhạycảm của da với với tia tím hay ánh nắng cótia tím, đều dùng dưới dạng thuốc uốngnhưng khác nhau về thời gian khởi phát vàkéo dài hiệu lực, thời gian cần dùng, liềulượng dùng (tùy sự đáp ứng của từngngười). Khi dùng các thuốc này không đượcdùng các thuốc có tính làm tăng cảm quangnhư sulfamid, tetracyclin, phenothiazin (vìsẽ cộng hợp làm tăng tính cảm quang gâysạm da).Các chất trang điểm: Các chất này khôngphải là thuốc. Bôi chất làm đậm vùng da bịbệnh để có màu tương đồng với màu củavùng da không bị bệnh (như DY-O derm,vitigo, statin); hoặc ngược lại, bôi chất tẩytrắng vùng da chưa bị bệnh để có màutương đồng với màu của vùng da bị bệnh(như hydroquinon). Lưu ý không dùng chotrẻ em, trước khi dùng cần thử trên phạm vihẹp, nếu không thấy dị ứng mới bôi tr êndiện rộng. Thời gian dùng các chất trangđiểm có hiệu quả thường 3-6 tháng.