Thông tin tài liệu:
Hệ thống thần kinh ngoại biên gồm có các sợi dây thần kinh ngoại biên về vận động, cảm giác, thực vật, các thân tế bào hướng tâm tự động và cảm giác bên ngoài hệ thống thần kinh trung ương. Bệnh thần kinh ngoại biên là rối loạn trong số các rối loạn thần kinh thường gặp nhất. Các ước lượng dân số cơ bản cho thấy tỷ lệ bệnh toàn bộ từ 2-7%, thường gặp ở người già nhiều hơn. Biểu hiện lâm sàng tùy thuộc vào loại sợi thầnkinh bị tổn thương do bệnh thần...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuốc trị những rắc rối thường gặp ở bệnh thần kinh ngoại biên Thuốc trị những rắc rối thường gặp ở bệnh thần kinh ngoại biên Hệ thần kinh ngoại biên. Hệ thống thần kinh ngoại biên gồm có các sợi dây thần kinh ngoại biênvề vận động, cảm giác, thực vật, các thân tế bào hướng tâm tự động và cảmgiác bên ngoài hệ thống thần kinh trung ương. Bệnh thần kinh ngoại biên là rối loạn trong số các rối loạn thần kinh thườnggặp nhất. Các ước lượng dân số cơ bản cho thấy tỷ lệ bệnh toàn bộ từ 2-7%,thường gặp ở người già nhiều hơn. Biểu hiện lâm sàng tùy thuộc vào loại sợi thầnkinh bị tổn thương do bệnh thần kinh ngoại biên. Hầu hết bệnh đa dây thần kinhảnh hưởng rất nhiều đến các sợi cảm giác hơn là sợi vận động. Rối loạn chức năngthần kinh tự trị nổi bật trong vài bệnh đa dây thần kinh, thường gặp hơn trong cácgiai đoạn tiến triển. Dấu hiệu và triệu chứng Biểu hiện lâm sàng tùy thuộc vào loại sợi thần kinh bị tổn thương do bệnhthần kinh ngoại biên. Hầu hết bệnh đa dây thần kinh ảnh hưởng rất nhiều đến cácsợi cảm giác hơn là sợi vận động. Rối loạn chức năng thần kinh tự trị nổi bật trongvài bệnh đa dây thần kinh, thường gặp hơn trong các giai đoạn tiến triển. Rối loạn cảm giác: Có thể gồm mất cảm giác, cảm giác bất thường, hayđau. Thuật ngữ tê thường được bệnh nhân dùng để mô tả sự mất cảm giác, chếtcảm giác, nặng hay yếu ở phần cơ thể bị bệnh. Các triệu chứng dị cảm gồm ngứarâm ran, đau nhói, cảm giác tê như kim chích hay nóng bỏng. Dị cảm thườngkhông đau nhưng có thể gây khó chịu cho bệnh nhân. Loạn cảm là cảm giác bấtthường không dễ chịu, có thể xảy ra tự phát hay gây ra do một kích thích vàthường không đau. Các thiếu sót vận động: Suy giảm vận động xảy ra với tổn thương dây thầnkinh ngoại biên bao gồm sự yếu của các cơ được dây thần kinh phân bố. Tổnthương dây thần kinh nặng kéo dài nhiều tháng sẽ làm mất khối cơ. Việc không sửdụng cơ và teo cơ tỉ lệ với sự yếu cơ rõ rệt, điển hình trong các tổn thương hệthống thần kinh trung ương gây yếu cơ do tổn thương nơron vận động trên hayđường tháp. Hầu hết các bệnh dây thần kinh ngoại biên là các bệnh sợi trục chếtngược dần lên và các cơ ngọn chi bị ảnh hưởng trước tiên. Có thể khó khăn trongthực hiện các công việc vận động tinh tế. Sự yếu cơ vận động ngọn chi có thể làmrơi bàn chân thứ phát do gập lưng bàn chân bị yếu đo. Các bệnh nhân có thể tiếntriển dáng đi gọi là dáng đi chân rủ, đặc trưng do gập đầu gối và hông thái quá khiđi để ngăn không cho các ngón chân va vào mặt đất do gập lưng bàn chân bị yếu. Hầu hết các bệnh đa dây thần kinh ảnh hưởng đến các sợi cảm giác sớmhơn và ở một mức độ lớn hơn các sợi vận động. Yếu vận động tiến triển mà khôngcó suy giảm cảm giác thì hiếm gặp trong bệnh đa dây thần kinh. Phản xạ gân xương: Mất các phản xạ gân xương điển hình xảy ra trước khibắt đầu yếu cơ vận động. Mất các phản xạ gân xương thường giúp phân biệt cácbệnh thần kinh ngoại biên và các tổn thương đường tháp trung ương, các rối loạnphức hợp thần kinh cơ và các bệnh cơ. Rối loạn chức năng thần kinh thực vật: Các triệu chứng của rối loạn thựcvật gồm hạ huyết áp tư thế và ngất. Các bệnh nhân có rối loạn chức năng thần kinhthực vật có thể bị tụt huyết áp tư thế đứng, không có tăng hay tăng không thíchđáng nhịp tim. Bệnh nhân mất dung nạp sức nóng do rối loạn tiết mồ hôi. Các đầuchi có thể lạnh. Hay gặp các rối loạn chức năng bàng quang, ruột; liệt cươngdương ở nam giới... Điều trị Điều trị nguyên nhân nằm bên dưới có thể phòng ngừa sự tiến triển và đôikhi đảo ngược tình trạng bệnh dây thần kinh. Nguyên tắc điều trị chung gồm chămsóc nâng đỡ và điều trị triệu chứng đau của bệnh dây thần kinh. Điều trị đau do bệnh dây thần kinh bằng nội khoa thường khó khăn. Cácloại giảm đau đơn giản gồm acetaminophen và các NSADI thường không hiệu quảĐiều trị thuốc gốc á phiện còn đang bàn cãi và chỉ có hiệu quả một phần và chỉnên dùng nếu các phương pháp khác thất bại. Điều trị đau với phương thuốc hỗ trợ gồm thuốc chống trầm cảm và chốngco giật. Các thuốc chống trầm cảm ba vòng có thể làm giảm đau do rối loạn cảmgiác, nóng bỏng và cải thiện được giấc ngủ. Các thuốc amitriptyline, nortriptylinehay desipramine thường được dùng với các liều khởi đầu nhỏ sau đó tăng dần đếnmức dung nạp. Tác dụng phụ gồm buồn ngủ thường ở liều giới hạn, nên thận trọngkhi dùng cho bệnh nhân lớn tuổi và bệnh nhân bị loạn nhịp tim. Hầu hết các thuốcchống trầm cảm mới (các thuốc ức chế sự giữ lại chọn lọc serotonin) không cóhiệu quả như nhau trên đau, ngoại trừ có thể là venlafaxine. Các thuốc chống cogiật được mô tả làm giảm đau tốt nhất là carmabazepine và gabapetin.Carbamazepine và phenyltoin có thể đặc biệt hữu ích trong đau buốt, nhói xảy ratừng cơn. Cabapentin có hiệu quả trong các rối loạn đau do bệnh dây thần kinhk ...