Danh mục

Thuyết Minh về Chiếc Áo Dài Việt Nam

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 125.99 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trải qua năm tháng, áo dài đã dần trở thành một thứ trang phục đặc biệt của riêng người Việt. Điểm qua một số thời kỳ được coi là "dấu ấn" trong quá trình hình thành và phát triển chiếc áo dài. Thời kỳ từ 1885-1915 Có giả thuyết cho rằng áo dài Việt Nam xuất xứ từ phương Bắc. Nhưng áo dài là loại trang phục riêng của người Việt vì những khi lễ lạt, người xưa phải khoác ra ngoài áo dài một cái áo lễ, thí dụ như áo tấc, áo dấu, áo tràng ngoài dân...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuyết Minh về "Chiếc Áo Dài Việt Nam" Thuyết Minh về Chiếc Áo Dài Việt Nam Trải qua năm tháng, áo dài đã dần trở thành một thứ trang phục đặc biệt củariêng người Việt. Điểm qua một số thời kỳ được coi là dấu ấn trong quá trình hìnhthành và phát triển chiếc áo dài. Thời kỳ từ 1885-1915 Có giả thuyết cho rằng áo dài Việt Nam xuất xứ từ phương Bắc. Nhưng áo dàilà loại trang phục riêng của người Việt vì những khi lễ lạt, người xưa phải khoác rangoài áo dài một cái áo lễ, thí dụ như áo tấc, áo dấu, áo tràng ngoài dân gian; hoặc áobào, áo mệnh phụ trong triều. Chỉ có các lễ phục này mới mang ảnh hưởng củaphương Bắc. Trong khi đó, từ đầu đến cuối quyển sách Trung Quốc Phục Trang Sử nổitiếng, viết và minh họa về y phục Trung Hoa từ đời Xuân Thu cho đến những năm đầuDân Quốc (1920), không thấy đả động gì đến bì bào (áo mặc sát vào da). Loại bì bàođộc nhất ở Trung Quốc, thường gọi là xường xám, có nghĩa là áo dài, chỉ xuất hiện từTrùng Khánh và Thượng Hải trong thập niên 1930. Trong sách Relation de la Nouvelle Mission des Péres de la Compagnie deJesus au Royaume de la Cochinchine, xuất bản tại Lille năm 1631, giáo sĩ Borri đã tảrõ về cách ăn mặc của người Việt ở đầu thế kỷ 17: Người ta mặc năm sáu cái áo dài,áo nọ phủ lên áo kia, mỗi cái một màu... Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoàiđược cắt thành những dải dài. Khi đi lại, các dải này quyện vào nhau trông đẹp mắt...Đàn ông cũng mặc năm, sáu lớp áo dài lụa... để tóc dài và vấn khăn như đàn bà. Có lẽ giáo sĩ Borri đã hiểu lầm về số lớp áo được người Việt cổ xưa mặc mỗikhi ra ngoài. Thật ra mấy lớp áo bên ngoài bị cắt thành các dải dài bên dưới thắt lưngmà giáo sĩ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen, hoặc có nơi gọi là quầy bơi chèo,mà người xưa mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên ngoài áo dài. Xiêm này có bahoặc bốn lớp dải lụa may chồng lên nhau. Lớp dải trong cùng dài nhất, rồi các lớp bênngoài ngắn dần. Bức tượng Ngọc Nữ tạc từ thế kỷ 17 ở chùa Dâu, Thuận Thành, BắcNinh, là minh chứng rõ nhất cho cả áo dài, các giải cánh sen, lẫn cách vấn khăn màgiáo sĩ Borri đã mục diện từ bốn thế kỷ trước đây. Thế kỷ XIX - XX Năm 1819, cách ăn mặc của người dân vẫn giống như giáo sĩ Borri đã thấy ởThuận Quảng từ hơn hai thế kỷ trước đó với quần lụa đen và áo may sát người dài đếnmắt cá chân. Cho đến đầu thế kỷ 20, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thểnăm thân, hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọctheo sống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nốiphía dưới khuỷu tay vì các loại vải ngày xưa chỉ dệt được rộng nhất là 40cm. Cổ, tayvà thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và khôngchít eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80cm. Cổ áo chỉ cao khoảng 2 -3cm. Riêng ở miền Bắc khoảng năm 1910 - 1920, phụ nữ thích may thêm một cáikhuyết phụ độ 3cm bên phải cổ áo, và cài khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo như thế sẽ hở racho quyến rũ hơn và cũng để khoe chuỗi hột trang sức quấn nhiều vòng quanhcổ.Phần nhiều áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may có lớp lót. Lớp áo trong cùngthấm mồ hôi, vì thế được may đơn bằng vải mầu trắng để không sợ bị thôi mầu, dễgiặt. Một áo kép mặc kèm với một áo lót đơn ở trong đã thành một bộ áo mớ ba. Quầnmay rộng vừa phải, với đũng thấp. Thuở đó, phần đông phụ nữ từ Nam ra Bắc đều mặc quần đen với áo dài, trongkhi phụ nữ Huế lại chuộng quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế hay mặc loạiquần chít ba, nghĩa là dọc hai bên mép ngoài quần được may với ba lần gấp, để khi đilại quần sẽ xòe rộng thêm. Trong các thập niên 1930 và 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều,gấu áo dài thường được may trên mắt cá khoảng 20cm, thường được mặc với quầntrắng hoặc đen. Những cách tân đầu tiên Một vài nhà tạo mẫu áo dài bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn này, nhưng gầnnhư họ chỉ bỏ được phần nối giữa sống áo, vì vải phương Tây dệt được khổ rộng hơn.Tay áo vẫn may nối. Nổi nhất lúc ấy là nhà may Cát Tường ở phố Hàng Da, Hà Nội.Năm 1939 nhà tạo mẫu này tung ra một kiểu áo dài được ông Âu hóa. Áo Le Mur vẫngiữ nguyên phần áo dài may không nối sống bên dưới. Nhưng cổ áo khoét hình tráitim. Có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ. Vai áo may bồng, taynối ở vai. Khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải. Nhưng kiểu áo này chỉ tồn tạiđến khoảng năm 1943. Đến khoảng năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may có eo. Các thợ may lúcđó đã khôn khéo cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân áo trước, nhất là ở phần mông, để áo ôm theo thândáng mà không cần chít eo. Vạt áo cắt hẹp hơn. Thân áo trong được cắt ngắn dần từgiai đoạn này. Cổ áo bắt đầu cao lên, trong khi gấu được hạ thấp xuống. Áo dài được thay đổi nhiều nhất trong thập kỷ 60. Vì nịt ngực ngà ...

Tài liệu được xem nhiều: