Có ý kiến cho rằng: Trong nền văn hóa cổ nước ta có rấtnhiều viên ngọc bị che lấp bởi lớp bụi thời gian mà nhiệmvụ của chúng ta là phải tìm tòi, bảo vệ cho nó sáng mãi.Khu di tích lịch sử văn hóa chùa Dâu là một viên ngọc nhưthế.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thuyết minh về một danh lam, thắng cảnh hoặc một ditích Thuyết minh về một danh lam, thắng cảnh hoặc một di tích ở địa phương : Chùa DâuBài viếtCó ý kiến cho rằng: Trong nền văn hóa cổ nước ta có rấtnhiều viên ngọc bị che lấp bởi lớp bụi thời gian mà nhiệmvụ của chúng ta là phải tìm tòi, bảo vệ cho nó sáng mãi.Khu di tích lịch sử văn hóa chùa Dâu là một viên ngọc nhưthế. Xây dựng từ những năm đầu Công nguyên, chùa Dâulại mang một giá trị đặc biệt của trung tâm truyền giáo đạoPhật đầu tiên ở nước ta.Chùa Dâu nay thuộc xã Thanh Khương, huyện ThuậnThành, tỉnh Bắc Ninh xưa thuộc Tống Khương, huyện LuyLâu, quận Giao Chỉ.Từ xa xưa người dân nơi đây thường sống bằng nghềtrồng dâu nuôi tằm, dân gian vẫn thường gọi là vùng dâuhoặc kẻ dâu. Chất mộc mạc thôn dã và giản dị nơi đây đãgóp phần không nhỏ tạo lên nét đẹp dân gian tự nhiên củachùa.Khoảng đầu Công nguyên một số nhà sư từ ấn Độ đi theođường biển vào Luy lâu để truyền đạo. Nhanh chóng chùađả trở thành một trung tâm truyền giáo đạo Phật đầu tiênđể từ đây lan rộng sang Lạc Dương (Trung Quốc) và mộtsố nơi khác. Bấy nhiêu thôi cũng đã đủ làm cho chúng tatự hào và trân trọng bởi ý nghĩa của giá trị văn hóa nơiđây. Nhưng không dừng lại ở đó, chùa còn đào tạo được500 vị tăng ni, dịch được 15 bộ kinh, làm được hàng chụcbảo tháp có các vị cao tăng nổi tiếng đã đến đây trụ trìnhư Mâu Bát, Pháp Hiền, Chi Y Cương Nương, Khâu ĐàLa...Ban đầu chùa Dâu chỉ là một cái am nhỏ, sau phát triểnlên thành một ngôi chùa với tên gọi đầu tiên là Cổ Châu tự(nghĩa là một viên ngọc quý).Đến thế kỷ thứ II sau Công nguyên (khoảng 187-226, thờiSỹ Nhiếp) hệ tư pháp được ra đời chùa Dâu thời bà PhápVân nên gọi là Pháp Vân tự. Vào thế kỷ XIV (1313), có thểnói đây là đợt hưng công lớn nhất. Dưới đời vua TrầnNhân Tông, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đã cho xây lênchùa to lớn như ngày nay: Chùa có hàng trăm gian, thápchín tầng, cầu chín nhịp mà bao đời nay khách từ muônphương vẫn về đây chiêm ngưỡng. Hành động ấy, việclàm ấy của ông cha ta thời xưa đã thể hiện ý thức dân tộc,sự tôn trọng, đề cao văn hóa, bản sắc dân tộc. Chùa Dâuđược coi là nơi rất thiêng liêng nên đã có lần chùa đượcgọi là Diên ứng tự (tức cầu gì được nấy). Điều đó đãđược minh chứng qua các đời vua của triều đại xa xưacũng từng về chùa Dâu như vua Lý Thánh Tông cầu tự(tức cầu con) và gặp được nguyên phi ỷ Lan khi đi thuyềntrên sông Dâu. Năm Đinh Tị 1737 có rất nhiều vua chúacung tần mĩ nữ qua lại lễ Phật cầu đảo thăm chùa, vãncảnh,...Với diện tích khoảng 1730m2 trên khu đất rộng bằngphẳng nằm cạnh sông Dâu, chùa được xây dựng mangđậm phong cách nghệ thuật, kiến trúc của thời Lý, Trần dođược tu sửa vào thời kỳ này. Quan trọng nhất là tháp HòaPhong, tháp có chín tầng song trải qua thời gian lịch sửlâu dài nay chỉ còn ba tầng có chiều cao khoảng 15m.Chân tháp hình vuông, trong lòng tháp có bốn bệ gạchbốn bên, trên mỗi bệ là một tượng hộ pháp bằng gỗ cao1,6m. ở tầng hai của tháp có biển đá khắc chữ HòaPhong tháp. Đặc biệt hơn nữa tháp dùng để đặt các xá lị,bên trên là một chiếc khánh đồng và một chiếc chuôngđồng lớn có niên đại từ 1893. Màu thời gian đã bao phủlên tháp những lớp rong rêu xanh màu cổ kính. Song cóthể nói giá trị của tháp Hòa Phong trong quần thể di tíchchùa Dâu là không nhỏ bởi đã gây sự chú ý đặc biệt củakhách du lịch thăm quan từ bốn phương về đây.Đến với chùa Dâu ngoài cảnh quan đồ sộ, chúng ta cònđược chiêm ngưỡng những pho tượng quý giá như PhápVân, Kim Đồng, Ngọc Nữ, những bức phù điêu chạm khắctrên những bức trống, cốn, giá chiêng mà ngày nay ít khicó được. Tất cả đều được tạc và rèn đúc rất tinh xảo trongbàn tay các nghệ nhân đời xưa. Tiêu biểu đó là tượngPháp Vân cao 1m85cm tạo trong thế ngồi ở tòa sen toànthân sơn màu cánh dán. Với chân dung tai to, lông màycong lá liễu, cổ cao ba ngấn tay phải dơ 5 ngón lên trời,trong lòng bàn tay có một viên ngọc sáng. Nét thanh thoát,mềm mại của bức tượng đã toát lên vẻ nhân từ, độ lượngcủa nhà Phật thiêng liêng, cao quý.Ta còn nhận thấy rằng tín ngưỡng phật giáo ấn Độ đanxen trong tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam như thờ các vịthần: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Gửi gắmvào đó là những mong ước cho mùa màng bội thu, cơmno áo ấm cho mọi chúng sinh của nhân dân khi trời đấtđược mưa thuận, gió hòa.Một điểm đáng nói nữa trong công trình kiến trúc của chùaDâu là hình trạm trổ trên đá. Đó là phong cảnh thiên nhiênchim muông, hoa lá, đặc biệt là rồng. Theo một số nhànghiên cứu thì một số hiện vật bằng đá, gạch đất nungtrang trí có hình vẽ rồng phần lớn là kiến trúc nghệ thuậtrồng có niên đại vào thời Lý Trần. Con rồng không chỉ làbiểu tượng văn hóa quý trong di sản văn hóa vật thể màcòn hiện diện rất phong phú trong di sản văn hóa phi vậtthể. Nó đi vào đời sống hôm nay như một nhu cầu vănhóa không thể thiếu trong các lễ hội.Ngày nay kiến trúc của chùa Dâu vẫn giữ nguyên như cũ:Nhà tiền thất, tháp Hòa Phong, Tiền Đường, tòa Tam Bảo,Thượng Điện, Hạ Điện, Hậu Đường, hai dãy hành lang,...Tuy nhiên thì cầu chín nhịp và Điện Tam quan đã khôngcòn.Hằng năm cứ vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, không ai bảo aingười dân từ thập phương đều kéo về nơi đây lễ Phật cầumay. Đó cũng là ngày hội chính của chùa Dâu, ngày màbà Man Nương sinh hạ.Hội Dâu mở trong 3 ngày: mồng 7, mồng 8, mồng 9 âmlịch với một quy chế rất chặt chẽ. 11 kiệu Phật được rướcra ngoài trời, đi khắp 12 làng xã trong Tổng Khương. Cáckiệu Phật được phong áo rất lộng lẫy uy nghi.Gắn với lễ hội còn có các trò chơi dân gian như thi cướpnước, múa trống, múa gậy, múa sư tử. Ban đêm có hátchầu văn, hát chèo, hát trống quân,... Đi theo các photượng rước còn có các tán, long, tù và, trống chiêng... tấtcả đã tạo nên cho ngày hội thêm đông vui, náo nhiệt.Về ...